Chúa Trịnh (chữ Hán: 鄭王 / Trịnh vương, chữ Nôm: 主鄭; 1545 – 1787)
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%BAa_Tr%E1%BB%8Bnh
https://en.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh_lords
https://fr.wikipedia.org/wiki/Dynastie_Tr%E1%BB%8Bnh
https://nuocnha.blogspot.com/2018/03...ng-chunom.html
Chúa Trịnh
鄭王
Đế quốc
1545–1787
Phủ chúa Trịnh thế kỷ XVII.
Thủ đô Thăng Long
Ngôn ngữ Tiếng Việt, Tiếng Hán
Tôn giáo Tam giáo quy nguyên
Chính quyền Quân chủ chuyên chế
Giai đoạn lịch sử Nhà Lê trung hưng
Thành lập 1545
Trịnh Kiểm xưng Thái sư Lạng Quốc công 1545
Trịnh Tùng chính thức xưng vương 1570
Trịnh Bồng mất ngôi 1787
Băi bỏ 1787
Tiền tệ Tiền xu
Chúa Trịnh (chữ Hán: 鄭王 / Trịnh vương, chữ Nôm: 主鄭; 1545 – 1787) là một vọng tộc phong kiến kiểm soát quyền lực Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng, khi nhà vua tuy không có thực quyền vẫn được duy tŕ ngôi vị. Bộ máy triều đ́nh lúc này hoạt động theo thể chế lưỡng đầu. Tổng cộng có 11 chúa Trịnh chính thức (nếu tính luôn Trịnh Kiểm là có 12 chúa) cai quản xứ Đàng Ngoài trong hơn 2 thế kỷ.
Nổi lên nắm quyền lực
Sau khi vua Lê Hiến Tông mất năm 1504, các vua kế vị đều yểu mạng, hoặc tàn bạo, hoặc kém tài. Đến năm 1527, quyền thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê Cung Hoàng rồi sáng lập nhà Mạc. Năm 1533, ở Thanh Hóa, một vơ tướng nhà Lê là Nguyễn Kim nổi dậy chống lại nhà Mạc, lập lại nhà Lê, ông t́m được hậu duệ của nhà Lê là Lê Duy Ninh bèn lập làm vua tức là Lê Trang Tông. Trong ṿng 5 năm, các vùng phía nam nằm dưới quyền kiểm soát của nhà Lê Trung Hưng nhưng họ không thể chiếm Thăng Long. Trong thời gian này, nhà Lê cũng phát triển thế lực về phía Nam, chiếm quyền kiểm soát vùng cực nam lănh thổ nơi từng là đất đai của Chăm Pa.
Người mở đầu sự nghiệp của họ Trịnh là Trịnh Kiểm, người huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tương truyền thuở nhỏ nhà Trịnh Kiểm nghèo, mẹ thích ăn gà nên ông thường bắt trộm gà của hàng xóm cho mẹ ăn. Hàng xóm rất ghét, nhân khi Trịnh Kiểm đi vắng bèn bắt mẹ ông ném xuống vực. Trịnh Kiểm về không thấy mẹ đâu bèn đi t́m, đến vực t́m ra xác mẹ th́ mối đă xông đầy lên rồi.
Sau có ông thầy tướng đi qua chỉ vào ngôi mộ mẹ Trịnh Kiểm đọc rằng:
Phi đế phi bá
Quyền khuynh thiên hạ
Truyền tộ bát đại
Tiêu tường khởi vạ
Nghĩa là:
Chẳng đế chẳng bá
Quyền nghiêng thiên hạ
Truyền được tám đời
Trong nhà dấy vạ
Mẹ mất, nghe tin Nguyễn Kim nổi dậy dựng lại nhà Lê, Trịnh Kiểm bèn đến xin gia nhập. Nhờ tài năng, ông được Nguyễn Kim tin cậy và gả con gái là Ngọc Bảo cho. Nǎm 1539 ông được phong làm Đại tướng quân, tước Dực quận công. Năm 1545, Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền, được phong làm thái sư nắm toàn thể quân đội.
"Phù Lê diệt Mạc"
"Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ"
Nắm quyền trong triều đ́nh Nam triều nhà Lê, trước hết Trịnh Kiểm lo đối phó với các con của Nguyễn Kim để củng cố quyền lực. Ông sai thuộc hạ xông vào nhà giết con cả của Kim là Nguyễn Uông.
Người con thứ là Nguyễn Hoàng sợ hăi xin xuống trấn giữ vùng Thuận Hóa - Quảng Nam ở phía Nam. Trịnh Kiểm cho rằng giết cả hai anh em Hoàng sẽ mang tiếng, mà Thuận - Quảng là nơi xa xôi, "ô châu ác địa" nên bằng ḷng cho Hoàng vào đó để mượn tay nhà Mạc giết Hoàng.
Từ đó Trịnh Kiểm nắm toàn bộ quyền hành của nhà Lê, xây dựng sự nghiệp cho họ Trịnh.
Năm 1556, vua Lê Trung Tông mất sớm không có con nối, Trịnh Kiểm định cướp ngôi nhà Lê, nhưng c̣n do dự sợ dư luận, bèn sai người t́m đến Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm bấy giờ đang ẩn dật.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491–1585), tên huư là Nguyễn Văn Đạt (阮文達)[1], tên tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ (白雲庵居士)[2], được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử (雪江夫子), là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16.
Nghe theo lời khuyên của Trạng Tŕnh ("giữ chùa thờ Phật th́ ăn oản"), Trịnh Kiểm bèn đi t́m được người trong tôn thất nhà Lê là Lê Duy Bang, cháu 6 đời của Lê Trừ (anh Lê Thái Tổ), lập làm vua, tức là Lê Anh Tông. Từ đó họ Trịnh nối đời cầm quyền nhưng danh nghĩa vẫn tôn pḥ, làm bề tôi cho nhà Lê, hai họ sống chung trong cơ chế lưỡng đầu. Bởi vậy người đời truyền lại câu:
"Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong."
Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh quyền. Hai anh em dàn quân đánh nhau. Cùng lúc đó quân Mạc từ bắc kéo vào. Trịnh Cối bị kẹp giữa hai đường không thể cự nổi bèn đầu hàng nhà Mạc, được nhà Mạc thu nhận và phong chức.
Vua Lê Anh Tông ủng hộ ngôi con trưởng của Trịnh Cối, cùng mưu với Lê Cập Đệ định giết Trịnh Tùng việc bị lộ. Vua Anh Tông mang 4 người con lánh đi nơi khác. Trịnh Tùng lập người con út của vua là Đàm lên ngôi, tức là Lê Thế Tông.
Sau đó, Trịnh Tùng lùng bắt được cha con vua Anh Tông mang về lập mưu giám sát, rồi bức chết. Từ đó vua Lê hoàn toàn nép trong cung, Trịnh Tùng tự ḿnh xử trí mọi việc trong triều.
Các vua Lê sau có ư định chống lại đều bị bức tử và thay thế bằng một hoàng đế nhỏ tuổi hoặc dễ bảo hơn.
Khôi phục Thăng Long
Bài chi tiết: Chiến tranh Lê-Mạc và Nhà Mạc
Tranh vẽ đám rước chúa Trịnh xuất hành, thế kỷ 17
Từ khi Trịnh Kiểm nắm quyền, họ Trịnh cai quản vùng phía nam của Đại Việt (trên danh nghĩa vẫn là chiến đấu dưới quyền vua Lê) và chiến đấu với nhà Mạc ở phía bắc. Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Nhờ có khẩu hiệu "Phù Lê diệt Mạc" (giúp Lê diệt Mạc), thanh thế họ Trịnh ngày một lớn. Ở vùng Tây bắc, anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên (Chúa Bầu) cát cứ tại Tuyên Quang sai người đến xin quy phục. Sau đó năm 1550, thái tể nhà Mạc là Lê Bá Ly là cựu thần nhà Lê sơ cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến về hàng.
Bài quá dài, phải cắt bớt. Xin coi ở : nuocnha.blogspot.com
Dẹp tàn dư họ Mạc
Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết th́ thế lực của nhà Mạc chưa bị tiêu diệt hết. Các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc quyền quản lư của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung cho tới năm 1623. Nhà Minh, v́ muốn duy tŕ thế Nam Bắc triều ở Đại Việt có lợi cho họ nên can thiệp để họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. V́ vậy cháu Mạc Kính Điển là Kính Khoan và con Khoan là Kính Vũ vẫn cát cứ ở Cao Bằng, dù về cơ bản, họ Trịnh đă làm chủ Bắc Bộ và Bắc Trung bộ.
Khi nhà Minh sụp đổ (1644), các vua Nam Minh - tàn dư nhà Minh - vẫn ủng hộ họ Mạc. Họ Mạc nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm. Măi đến khi nhà Minh mất hẳn (1662) về tay nhà Thanh, họ Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, chúa Trịnh Tạc sai tướng Đinh Văn Tả đi đánh, việc trấn giữ Cao Bằng của họ Mạc mới chấm dứt.
Trịnh - Nguyễn phân tranh
Bài chi tiết: Trịnh-Nguyễn phân tranh
Sau khi Nguyễn Hoàng xuống phía Nam đă xây dựng căn cứ và phát triển thành một thế lực độc lập, h́nh thành chính quyền của họ Nguyễn. Tuy các chúa Nguyễnvẫn hợp tác với chúa Trịnh để chống nhà Mạc và vẫn đứng danh nghĩa là thần tử nhà Lê, nhưng thực tế các chúa Nguyễn vẫn cai trị các tỉnh biên giới phía Nam Đại Việt với một chính quyền độc lập. Hơn thế nữa, họ đă có công mở rộng lănh thổ Đại Việt lên gấp đôi về phía Nam. Sau khi đánh bại nhà Mạc, sự độc lập của các chúa Nguyễn ngày càng trở nên khó chịu đối với các chúa Trịnh.
Những sự căng thẳng lên đỉnh điểm năm 1627 khi chiến tranh nổ ra giữa hai phe. Trong khi phe chúa Trịnh kiểm soát một vùng rộng lớn và đông dân cư hơn, th́ chúa Nguyễn lại có nhiều ưu thế. Thứ nhất, họ chỉ muốn bảo vệ lănh thổ của ḿnh, họ không muốn tấn công miền bắc.
Thứ hai, chúa Nguyễn có thể lợi dụng ưu thế về các tiếp xúc của ḿnh với những người châu Âu, đặc biệt là những người Bồ Đào Nha, để mua các loại súng hiện đại của châu Âu.
Bồ Đào Nha
Thứ ba, điều kiện địa lư cũng ưu đăi cho họ, đất đai phẳng vốn thích hợp cho những quân đội được tổ chức lớn lại hiếm có ở lănh thổ của họ, nơi núi non hầu như lan ra đến tận biển.
Bài quá dài, phải cắt bớt. Xin coi ở : nuocnha.blogspot.com
Dẹp yên khởi nghĩa nông dân
Các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương đều là những chúa giỏi cai trị. Sau khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn và Trịnh-Mạc chấm dứt, Bắc Hà yên ổn thịnh trị.
Bài quá dài, phải cắt bớt. Xin coi ở : nuocnha.blogspot.com
Trong cuộc chinh phạt các cuộc khởi nghĩa, nổi lên tên tuổi các danh tướng Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt, Phạm Đ́nh Trọng. Đến khi Trịnh Doanh mất (1767), cơ bản các cuộc khởi nghĩa đều bị dẹp tan, chỉ c̣n Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật.
Con Doanh là Trịnh Sâm lên ngôi nhanh chóng dẹp nốt các cuộc khởi nghĩa này năm 1769.
Chân dung chúa Trịnh Sâm trong Trịnh gia chính phả
Lê bại Trịnh vong
Họa phẩm mô tả Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm và Tuyên phi Đặng Thị Huệ thưởng trà tại Tả Vọng đ́nh.
Tây Sơn khởi nghĩa
Ḥa b́nh lâu dài với Đàng Trong kết thúc khi cuộc nổi dậy Tây Sơn ở phía nam chống lại chúa Nguyễn bùng nổ năm 1771. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn được chúa Trịnh Sâm coi là một cơ hội để kết liễu chúa Nguyễn ở miền nam Việt Nam.
Năm 1774, Trịnh Sâm cử lăo tướng quận Việp Hoàng Ngũ Phúc mang quân tấn công và chiếm Phú Xuân.
Quân Trịnh tiếp tục tiến về phía nam trong khi quân Tây Sơn chiếm các thành khác ở trong nam.
Các chúa Nguyễn giữ Gia Định tới tận khi nó bị chiếm vào năm 1777 và ḍng họ nhà Nguyễn gần như bị tiêu diệt.
Lần đầu tiên bờ cơi của Lê-Trịnh được mở rộng đến Quảng Nam.
"Truyền tộ bát đại, tiêu tường khởi vạ"
Họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm là truyền được 9 đời chúa. Năm 1782, Trịnh Sâm qua đời. Ngay từ khi Sâm c̣n sống đă diễn ra cuộc tranh giành ngôi thế tử giữa con trưởng Trịnh Tông và con thứ Trịnh Cán.
Cán c̣n nhỏ nên thực chất đó là phe Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Tuyên phi lôi kéo quận Huy là Hoàng Đ́nh Bảo (cháu Hoàng Ngũ Phúc). V́ Tuyên phi được sủng ái nên Trịnh Cán được lập làm thế tử. Khi Sâm mất, Trịnh Cán lên thay, quận Huy phụ chính. Quân kiêu binh giúp Trịnh Tông làm binh biến giết chết quận Huy, phế bỏ Trịnh Cán và đưa Tông lên ngôi chúa, đổi tên là Khải.
Tuy nhiên từ khi Trịnh Khải lên ngôi, chính sự cũng không sáng sủa. Quân kiêu binh cậy công làm càn, cướp của, phá phách kinh đô, kể cả nhà các quan lại. Trịnh Khải không dẹp nổi.
Ngoài biên cương, sau khi quận Việp mất, thành Phú Xuân giao cho Bùi Thế Đạt. Sau Đạt cũng rút về bắc giao lại cho Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đ́nh Thể. Tướng sĩ kiêu ngạo, lơ là mất cảnh giác pḥng bị.
Vua chúa cùng chạy
Xem thêm: Nhà Tây Sơn và Nguyễn Huệ
Tây Sơn không muốn trở thành kẻ bầy tôi của các chúa Trịnh và sau một vài năm củng cố quyền lực ở phía nam, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ tiến ra phía bắc Đại Việt vào giữa năm 1786 với một đội quân đông đảo.
Quân Trịnh bị quân Tây Sơn đánh bại và chúa Trịnh Khải phải chạy về phía bắc rồi sau đó bị bắt và tự vẫn.
Nguyễn Huệ
Quân Tây Sơn rút về, sau đó các bầy tôi cũ lại lập con Trịnh Giang là Trịnh Bồng lên ngôi. Vua Lê mới là Chiêu Thống muốn chấn hưng nhà Lê nên triệu Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn thủ Nghệ An ra giúp. Chỉnh đánh tan quân Trịnh, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích.
Tuy nhiên sau đó Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng quyền. Nguyễn Huệ phái Vũ Văn Nhậm ra giết Chỉnh rồi đến lượt Nhậm lại mưu cát cứ ở Bắc Hà khiến Lê Chiêu Thống phải bỏ đi lưu vong, chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh.
Vua Càn Long điều một đội quân lớn tới Đại Việt nhằm tái lập vua Lê. Quân Thanh chiếm được Thăng Long năm 1788 nhưng sau đó bị Nguyễn Huệ giáng cho một đ̣n nặng nề đầu năm 1789.
Quân Thanh thua to, rút chạy.
Nguyễn Huệ -lúc ấy đă là hoàng đế Quang Trung - sau đó được vua Thanh công nhận và chính thức thay họ Lê cai trị nước Đại Việt.
Chiêu Thống lưu vong và mất (1793) ở Trung Quốc.
Đánh giá
Bài quá dài, phải cắt bớt. Xin coi ở : nuocnha.blogspot.com
Chiến tranh Trịnh-Nguyễn diễn ra trong 45 năm giữa thế kỷ 17 nhưng trong thời gian đó Bắc Hà không có cuộc bạo loạn, chống đối nào của nông dân.
Sử gia Tạ Chí Đại Trường nhận xét trong sách "Bài sử khác cho Việt Nam":
"Công b́nh nh́n lại, ta thấy không có ông chúa nào mà không xứng đáng với tính cách người thủ lĩnh cả.
Họ giết nhau để giành ngôi hay giữ ngôi nhưng rơ ràng là thật tận lực trong địa vị lănh đạo đất nước.
Trịnh Căn có một tuổi trẻ hư đốn theo lời gia phả họ Đặng nhưng đă len lách lên đến tột đỉnh bằng chính quân công của ḿnh trước khi chứng tỏ khả năng điều hành.
Trịnh Cương là người thi hành cải cách nhiều nhất, có căn bản nhất như cải cách thuế khoá 1723, h́nh phạt cũng bớt phần tàn khốc (không chặt tay 1721, không xử tử xă trưởng ẩn lậu dân đinh.)
Trịnh Giang bị lật đổ với cớ làm hư hỏng triều chính nhưng đó là khi ông ta đă đắc chí và mang bệnh hoạn, c̣n khi mới lên ngôi ông vẫn sử dụng Nguyễn Công Hăng để thi hành những cải cách lớn lao dù đă bị ông này chê nặng lời khi c̣n là Thế tử."
Các chúa Trịnh Căn, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm ngoài vơ công c̣n được đánh giá là những người hay chữ. 5 chúa đầu từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Căn đều rất thọ (từ 68 đến 81 tuổi), hẳn các chúa cũng phải là những sống người nghiêm túc và điều độ.
Các thành tựu của nhà Lê Trung Hưng thực chất là thành tựu do các chúa Trịnh.
Bài quá dài, phải cắt bớt. Xin coi ở : nuocnha.blogspot.com
Danh sách mười một chúa Trịnh
Chúa | Ở ngôi | Đời vua | Miếu Hiệu | Thụy Hiệu | Ghi chú
Trịnh Kiểm | 1545-1570 | Lê Trang Tông | Thế Tổ | Minh Khang | Đương thời khi cầm
| (25 năm) | Lê Trang Tông | (世祖) | Thái vương | quyền ông không
| (1533-1548) | | (明康太王) | xưng là chúa nhưng
| Lê Trung Tông | | được đời sau truy tôn
| (1548-1556) | | | là Minh Khang Thái
| Lê Anh Tông | | | Vương. Do đó ông
| (1556-1573) | | | không phải là vị
| | | | chúa Trịnh đầu tiên.
Trịnh Cối | 1570 | Lê Anh Tông | Không có| Không có| Năm 1570, đầu hàng nhà Mạc
| được Mạc Kính Điển phong làm Trung Lương hầu (忠良侯).
| Sau khi chết, được Lê đế xá tội, truy tặng Thái phó, tước Trung
| quốc công (忠國公). Do đó ông không được xem là chúa Trịnh đầu
| tiên.
B́nh An vương | 1570-1623 | Lê Anh Tông | Thành Tổ | Triết vương | Ông là vị chúa Trịnh
Trịnh Tùng | (53 năm) | Lê Thế Tông | (成祖) | (哲王) | đầu tiên trong
| (1573-1599) | | | trong lịch sử.
| Lê Kính Tông |
| (1599-1619) |
| Lê Thần Tông|
| (1619-1643) |
Thanh Đô vương | 1623-1657 | Lê Chân Tông| Văn Tổ | Nghị vương | Con trai thứ hai
Trịnh Tráng | (34 năm) | (1643-1649) | (文祖) | (誼王) | của Trịnh Tùng.
| Lê Thần Tông|
| (lần hai: |
| 1649-1662) |
Tây Định vương |1657-1682 | Lê Thần Tông| Hoằng Tổ | Dương vương | Con trai thứ hai
Trịnh Tạc | (25 năm) |Lê Huyền Tông| (弘祖) | (陽王) | của Trịnh Tráng.
| (1662-1671) |
| Lê Gia Tông |
| (1671-1675) |
| Lê Hy Tông |
| (1675-1705) |
Định Nam vương |1682-1709 | Lê Hy Tông | Chiêu Tổ | Khang vương | Con trưởng của
Trịnh Căn |(27 năm) | Lê Dụ Tông | (昭祖) | (康王) | Trịnh Tạc.
| (1705-1729) |
An Đô vương |1709-1729 | Lê Dụ Tông | Hy Tổ | Nhân vương | Cháu chắt của Trịnh
Trịnh Cương|(20 năm) | Lê Đế | (禧祖) | (仁王) | Căn, cháu nội của
| Duy Phường | | Lương mục vương
| Trịnh Vịnh, con trai của Tấn Quang
| vương Trịnh Bính.
Uy Nam vương |1729-1740 | Lê Đế Duy Phường | Dụ Tổ | Thuận vương| Con trưởng của Trịnh
Trịnh Giang | (11 năm) | Lê Thuần Tông | (裕祖) | (順王) | Cương, bị ép nhường
| (1732-1735) | tôn làm Thái Thượng vương
| Lê Ư Tông | năm 1740
| (1735-1740)
Minh Đô vương |1740-1767 | Lê Ư Tông | Nghị Tổ | Ân vương | Con thứ của Trịnh Cương
Trịnh Doanh | (27 năm) | Lê Hiển Tông |(毅祖) | (恩王) | em trai Trịnh Giang.
| (1740-1786)
Tĩnh Đô vương |1767-1782 |Lê Hiển Tông | Thánh Tổ | Thịnh vương | Con trai trưởng của
Trịnh Sâm | (15 năm) | | của Trịnh Doanh.
Điện Đô vương |9-10/1782 | Lê Hiển Tông | | | Bị phế làm Cung quốc công
Trịnh Cán | (Một tháng) | | | | và mất sau loạn kiêu binh 1782;
| Sau khi mất được ban thụy là Trung Cần
Đoan Nam vương |10/1782-1786| | | Linh vương| Con trai trưởng của Trịnh Sâm
Trịnh Khải | (4 năm) | Lê Hiển Tông|
Án Đô vương |9/1786-9/1787 | Lê Mẫn Đế | | | Trốn mất tích sau 1787
Trịnh Bồng | (Một năm) |
Niên Biểu
Bookmarks