Tạ Ơn Người, Tạ Ơn Đời
(Lê Nguyễn Hằng)
Viết cho Carol và John Steele
Năm 1975, sau vài lần chuyển từ trại tạm trú này qua trại tạm trú khác ở đảo Guam, gia đ́nh tôi được đưa đến Fort Chaffee ở Arkansas chờ bảo lănh.
Mặc dù biết là ḿnh đă đến bến bờ tự do và đang tạm thời được hưởng cuộc sống an nhàn ở một đất nước giàu mạnh nhất thế giới, thế mà trong ḷng vẫn canh cánh, vẫn thấp thỏm sợ hăi khi nghĩ đến một tương lai mờ mịt. Chúng tôi như những con thú hoang, bị bắt vào trong cũi và thả đến nơi xa lạ. Nh́n cái ǵ cũng nghi ngờ và băn khoăn, lo lắng. Rồi những lời đồn đăi càng làm tăng thêm mối âu lo. Nào là vài ngày nữa, sau khi làm xong danh sách, chính phủ Mỹ sẽ đem những người tỵ nạn đến một mảnh đất hay một ḥn đảo hoang vu, cung cấp một ít dụng cụ làm ruộng làm vườn để đám dân tỵ nạn tự lực cánh sinh bắt đầu một cuộc sống mới; nào là họ sẽ phân phối lực lượng lao động này đi làm lao công cho những hăng xưởng hay nông trại xa xôi hẻo lánh trong khi phần lớn chúng tôi không quen những công việc này. Tệ hơn nữa là họ sẽ dùng người tỵ nạn làm tù binh để trao đổi với phía bên kia cho những điều họ muốn.
Những ư tưởng tiêu cực đó cứ loanh quanh măi trong đầu tôi cho đến ..
Một buổi trưa hè nóng bức, tôi đang đứng dưới gốc cây chờ xe buưt đi lấy sữa cho con th́ một người Mỹ, chắc là làm việc trong trại, thấy vẻ mặt buồn buồn của tôi, anh ta chỉ tay ra ngoài xa và hỏi:
- Cô có thân nhân nào ngoài kia không?
- Không, ông ạ.
- Cô có muốn điện thoại cho ai không?
- Tôi chẳng quen ai và cũng không biết cách gọi.
- Tôi sẽ giúp cô gọi cho bạn hay bà con của cô.
Tôi lưỡng lự:
- Tôi chỉ biết bà xếp cũ của tôi tên là Carol Steele ở McLean, Virginia. Nhưng v́ vợ chồng bà ấy được lệnh rời Việt Nam cấp tốc nên không kịp cho tôi địa chỉ và số điện thoại.
- Không sao, tôi sẽ ḍ trong cuốn niên giám và gọi thử, tôi sẽ gọi "collect" nhá.
Tôi như người chết đuối vớ được một khúc củi mục đang trôi lơ lủng trên ḍng sông, chẳng cần biết ra sao, cũng cố với tay bám vào nó. Tôi chẳng hiểu "collect" là ǵ nhưng cũng gật đầu. Thế là người bạn mới quen bắt đầu quay số. Đến lần thứ ba th́ may mắn gặp được người xếp cũ của tôi khi c̣n làm cho Cơ Quan Viện Trợ Mỹ, trực thuộc ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Saigon.
Khi người đàn ông đưa điện thoại cho tôi, tôi chỉ kịp xưng tên rồi ̣a lên khóc. Những nỗi niềm hoang mang u uẩn chất đầy trong ḷng được dịp tuôn trào. Carol ở đầu giây bên kia cũng khóc. Tôi cố nén nỗi xúc động, kể sơ qua cho Carol nghe về hoàn cảnh hiện tại. Carol nói:
- Tôi vẫn cố ư dọ hỏi tin tức về Hằng lâu nay mà chưa được, bây giờ biết gia đ́nh bà ra khỏi nước b́nh yên và đang ở Arkansas rồi, sáng mai tôi sẽ làm giấy bảo lănh tất cả bẩy người về đây với chúng tôi ở Virginia.
Tôi vội vàng từ chối:
- Cám ơn ḷng tốt của Carol, nhưng khi nào bà t́m được việc làm cho tôi th́ gia đ́nh tôi mới rời trại, ít nhất ở trong này chúng tôi không phải lo miếng ăn.
- Ở nước Mỹ này, ai cũng phải xin mới có việc làm, thôi cứ ra đây rồi tới đâu hay tới đó, đừng sợ.
Sáng hôm sau mới mười giờ đă có loa gọi tôi đến văn pḥng lănh điện tín, đó là giấy bảo lănh của vợ chồng người xếp cũ, Carol và John Steele. Chỉ một tuần sau, ngày thứ sáu, 13 tháng 6 năm 1975, gia đ́nh tôi, gồm hai vợ chồng và 3 đứa con nhỏ dại cùng hai người em, lên máy bay đi định cư ở tiểu bang Virginia.
Carol và John ra đón chúng tôi ở phi trường. Hai bên đường từ Washington Dulles Airport về thành phố McLean, Virginia, cây cối xanh tươi mát mẻ, những cây đào cành mảnh khảnh, thanh nhă, nghiêng ngả mang những cánh hoa màu tím, nhạt có, đậm có, vài cây hoa màu trắng mùi hương thoang thoảng dịu dàng, tôi có cảm tưởng như ḿnh đang lạc vào một rừng hoa cho đến khi Carol bảo: "Ḿnh đă đến nhà rồi".
Đó là một căn nhà hai tầng có 5 pḥng ngủ và "basement". Ở miền đông xứ tuyết mà phần lớn nhà không có garage nhưng có tầng dưới mặt đất dùng để chứa đồ đạc hoặc sửa lại thành một pḥng ngủ hay pḥng giải trí.
John, Carol và Chris, đứa con trai 18 tháng tuổi, ở hai pḥng trên tầng nh́. Sau khi dẫn chúng tôi xem 3 pḥng dành cho gia đ́nh tôi ở tầng trệt, vào bếp tôi thấy ngay một bao gạo thật lớn ở dưới đất và chai nước mắm trên mặt bàn. Carol giải thích: "Tôi biết người Việt Nam ăn cơm hằng ngày và gia vị chính là nước mắm nên vợ chồng tôi đă đi lùng bao nhiêu chợ Á Châu mới t́m ra được chai nước mắm này đây."
Sáng thứ hai, tôi đang sửa soạn bữa ăn sáng cho các con, Carol đến gần lúc lắc trong tay một tờ báo với những khoanh tṛn xanh đỏ, bà ta nói:
- Hằng, thay quần áo đi xin việc làm. Tôi đă làm sẵn Resume và điện thoại xin hẹn được ba chỗ cho bà rồi, sửa soạn nhanh lên kẻo trễ giờ.
Vừa mới ra khỏi trại tỵ nạn vỏn vẹn được hai ngày, c̣n chưa hoàn hồn, nên tôi thật sự hoang mang và lo sợ nhưng cũng vội vàng chuẩn bị sơ sài cho kịp.
Trên đường đi, ḷng tôi rối như tơ ṿ, dù Carol đă giải thích sơ qua lề lối xin việc ở nước Mỹ. Tôi vẫn cứ băn khoăn lo lắng, không biết người phỏng vấn ḿnh là đàn ông hay đàn bà, dễ hay khó, có hỏi những câu hắc búa không và ḿnh phải trả lời làm sao. Để đỡ run, tôi ráng b́nh tĩnh bằng cách ngắm hoa hai bên đường. Trời vừa chớm xuân nên chỗ nào cũng toàn là hoa, sao hoa ở đâu mà nhiều và đẹp thế. Giá như b́nh thường chắc tôi đă đ̣i ngừng xe cho ḿnh xuống thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên. Nhưng bây giờ, giật ḿnh nghe Carol bảo: "Đă đến nơi hẹn đầu tiên", rồi thứ hai và thứ ba ..
Liên tiếp bốn hôm, mọi sự tái diễn y như thế. John và Carol đă phải lấy ngày nghỉ phép để chở hai vợ chồng tôi đi xin việc làm, hai người thay phiên nhau vất vả đưa bẩy người chúng tôi đi làm mọi thủ tục cần thiết để sống ở nước Mỹ như đi nhà thương khám sức khỏe, nha sĩ khám răng, xin thẻ an sinh xă hội, rồi đi xin trường lớp cho mọi người đi học ban ngày lẫn ban đêm, đi chợ và c̣n phải hướng dẫn chúng tôi cách đi xe buưt, tập lái xe hơi, sử dụng những đồ dùng trong nhà, từ ḷ nướng đến máy rửa bát, máy giặt, máy sấy .. Mỗi tối, John dạy ba đứa nhỏ học, c̣n Carol lo chỉnh sửa cách phát âm tiếng Mỹ của bốn người lớn.
Những chỗ tôi nộp đơn xin việc và đă được phỏng vấn đều hứa sẽ gọi lại trong tuần nhưng đến 5 giờ chiều ngày thứ sáu vẫn không thấy tăm hơi.
Tôi bắt đầu nản chí và đề nghị với Carol là thôi không xin việc văn pḥng nữa mà chú trọng vào việc bồi bàn hay trong nhà bếp. Carol bảo rằng: "Bà đă thấy những người chạy bàn bưng mấy cái khay chồng một đống bát đĩa nặng trĩu, bà có bưng nổi không? C̣n trong bếp, người ta cầm những cái chảo gang một tay, c̣n tay kia lật hoặc đảo thức ăn, bà có làm được không?"
Những tiếng "nổi không, được không" vang nặng nề, chát chúa trong đầu tôi. Quả thật, tôi mảnh khảnh nhỏ bé làm sao kham nổi những công việc tưởng dễ mà lại vô cùng khó như vậy. Mọi hy vọng t́m được việc làm kiếm sống nuôi gia đ́nh bỗng tiêu tan.
Đột nhiên điện thoại reo lanh lảnh và tiếng John: "Hằng, có người gọi này". Tôi cầm điện thoại, tiếng trả lời của tôi càng lúc càng run: "Vâng .. vâng .. vâng .. cám ơn ông."
Cúp máy xong tôi bảo Carol: "Hồi năy là ông James, Giám Đốc hăng National Council on Alcoholism, h́nh như .. ông ấy .. nhận tôi làm việc, chẳng biết có đúng vậy không, tôi run quá nên không chắc."
Carol bèn gọi lại ông ấy để hỏi cho đích xác. Một lúc sau Carol trở lại ôm chầm lấy tôi lắc lấy lắc để "chúc mừng công việc làm đầu tiên ở nước Mỹ, thôi không phải đi nấu bếp, làm bồi bàn hay rửa bát nữa nhé", cả bốn chúng tôi đều ràn rụa nước mắt trong vui mừng và hạnh phúc.
Lâm, chồng tôi, xin được chân rửa bát trong một tiệm ăn của Ư. Giờ giấc trái ngược làm vợ chồng khó có dịp gặp nhau. Thế là Lâm xin những việc ban ngày như khuân vác, sắp xếp mặt hàng cho tiệm thuốc tây, đứng tính tiền cho tiệm giặt ủi .. John thường nói với vợ chồng tôi là ông ấy rất khâm phục Lâm khi anh ấy quyết tâm làm việc để nuôi gia đ́nh dù là những việc hoàn toàn dưới khả năng.
Sau hai tháng, John và Carol bàn rằng: "Hai vợ chồng qua đây để có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc có nhau chứ không phải như thế này. Bây giờ Lâm nghỉ việc đi học lại, một ḿnh Hằng đi làm ăn tiêu tần tiện cũng tạm đủ. Sau khi Lâm ra trường có việc làm vững chắc th́ đến lượt Hằng nghỉ làm đi học." Lời bàn thật hợp lư, thế là lúc đó chỉ một ḿnh tôi tiếp tục kiếm cơm, 6 người c̣n lại trong gia đ́nh gồm chồng tôi, em trai, em gái và ba đứa con đều đi học.
Những khi đi chợ, Carol không cho tôi trả tiền. John và Carol lúc nào cũng bảo rằng: "Ráng dành dụm để sau này mua một căn nhà nho nhỏ." Từ ngày ở đây, tôi luôn luôn nấu món ăn Việt Nam cho cả gia đ́nh mười người. Cậu bé Chris ăn quen rồi bỏ luôn thức ăn Mỹ. Sau này Carol thường nói: "Khi nhận bảo lănh gia đ́nh Hằng, mối lo lắng nhất của tụi tôi là tiền ăn cho mười người, nhưng khi Hằng đảm trách phần nấu ăn th́ đă cho mọi người ăn những món ăn Việt thật ngon mà lại chỉ tốn kém bằng khi chúng tôi nấu theo kiểu Mỹ cho 3 người ăn. Quả là tuyệt vời!"
Một hôm thật bất ngờ, vợ chồng tôi nhận được một lá thư của Ṭa Bạch Ốc. Cầm cái phong b́ trong tay mà lạnh xương sống, không biết có chuyện ǵ đây, chắc hẳn dữ nhiều hơn lành, điều sợ nhất là bị trả về Việt Nam. Không ngờ Tổng Thống Gerald Ford mời chúng tôi đến dự một phiên họp về vấn đề đồng bào tỵ nạn Việt Nam, họ muốn nói chuyện trực tiếp với "người tỵ nạn" như chúng tôi.
Hồi mới tới Hoa Kỳ chưa đầy một tháng, mọi sự đều c̣n rất lạ, có lần đến giờ ăn trưa, vợ chồng tôi bỡ ngỡ, rụt rè đi theo những người Mỹ vào "cafeteria", nh́n trước ngó sau, họ làm ǵ th́ ḿnh làm theo. Sau khi lấy thức ăn, chúng tôi thấy mọi người đều t́m bàn rồi ngồi xuống ăn. Nh́n quanh không thấy ai trả tiền nên ḿnh cũng đặt khay thức ăn xuống một cái bàn trống. Bỗng nghe tiếng gọi sau lưng:
- Miss .. miss ..
Quay lại, thấy một phụ nữ Mỹ đang hấp tấp chạy lại phía bàn ḿnh. Tôi hoảng hốt tưởng rằng họ bắt ḿnh về việc không trả tiền ăn. Tôi bối rối và ngượng ngập nói:
- We are so sorry ..
Người đàn bà bảo rằng:
- Sao bà lại "sorry"? Trời ơi, bà mặc cái "áo dài" đẹp quá! Tôi muốn hỏi bà mua hay may ở đâu v́ bạn trai của tôi trước đây đi lính chiến đấu bên Việt Nam, anh ấy ca ngợi hết lời về sự tha thướt của cái áo dài và người phụ nữ Việt Nam cho nên tôi muốn có một cái mặc cho bồ tôi ngạc nhiên.
- Thế mà bà làm tôi suưt đứng tim. Áo này tôi đem theo từ Việt Nam. Chúng tôi mới định cư ở đây, chưa quen biết lắm nên rất tiếc không giúp được bà.
Ba tháng sau, khi việc làm của tôi đă vững vàng, chúng tôi ngỏ ư muốn dọn ra ở riêng, John và Carol đă tự nguyện đứng tên thuê hộ một apartment v́ chúng tôi không có credit và làm việc chưa được một năm nên không có khả năng làm chuyện đó.
Ngày dọn nhà, John tặng chúng tôi một bức tranh màu nâu có h́nh chiếc thuyền buồm do một họa sĩ Việt Nam vẽ và bảo rằng bức tranh này họ mua ở Saigon mấy năm rồi, lâu nay vẫn treo ở pḥng khách nhưng hôm đi phi trường đón chúng tôi về th́ họ dấu bức tranh trong nhà kho v́ sợ chúng tôi trông thấy sẽ buồn và nhớ nhà. Hôm ấy họ nghĩ là chúng tôi đă nguôi ngoai nên mới tặng để có một cái ǵ của Việt Nam và từ Việt Nam. Chúng tôi cám ơn món quà và sự tế nhị của vợ chồng John. Chúng tôi đă treo bức tranh đó ở mọi chung cư và nhà chúng tôi ở trong suốt bốn mươi năm qua với ḷng yêu thương và tự hào.
C̣n tiếp ...
Bookmarks