T́nh cờ mới đây tôi được đọc một bài viết về phong tục ĺ x́ ngày Tết phổ biến trên blog “ vương-trí-nhàn ” có một câu mà tác giả đă quả quyết về nguồn gốc phong tục Việt Nam : “ Có một điều chắc, cũng như nhiều phong tục khác, nó bắt nguồn từ Trung quốc. ”, và cho rằng phong tục theo truyền thống là mê tín dị đoan : “Nhân danh tiếp nối truyền thống, người ta thả ḿnh vào ṿng tay của mê tín dị đoan, đằng sau đó không ǵ khác chính là nỗi lo lắng thường trực cho tương lai và liều lĩnh làm tất cả để mưu sinh. Mối quan hệ giữa người với người trong trường hợp này không t́m được những chuẩn mực hợp lư. ” (trích : “ Ĺ x́ ba vạ tức là trao con dao sắc cho trẻ ” )
Đây không phải là lần đầu và cũng sẽ không phải là lần cuối mà tôi được đọc những bài viết như thế này, với nội dung ư nghĩa hoàn toàn sai lạc để đừng nói là xuyên tạc. V́ tác giả bài viết này cũng như nhiều tác giả khác khi viết về những vấn đề có liên quan đến văn hóa, phong tục VN, hầu hết đều suy luận một cách thiển cận và quy nạp để cho rằng “ nó bắt nguồn từ Trung Quốc ” ! Điều này chứng tỏ hầu hết người Việt chúng ta ngày nay đă bị cái gọi là thành kiến ăn sâu vào tiềm thức. Có lẽ v́ lịch sử đất nước gắn liền với gần một ngàn năm bị đô hộ bởi quân Hán qua ba lần Bắc thuộc, và với mưu đồ đồng hóa từ xưa (vẫn tồn tại tới nay) trong đầu óc của phường xâm lăng phương Bắc. Vả lại, nếu chỉ dựa vào yếu tố lịch sử luôn bị xuyên tạc hay bóp méo với thời gian bởi thế lực của kẻ “ mạnh được yếu thua ” để kết luận, th́ chưa hẳn là đúng sự thật. V́ vậy, phần đông người Việt chúng ta cứ tưởng văn hóa, phong tục của dân ta là do ảnh hưởng của Tàu hay có nguồn gốc từ Tàu, mà không hề thắc mắc hay không chịu t́m hiểu, kể cả hạng trí thức !
Nhưng tại sao lại phải đi t́m hiểu sự thật, khi mà từ xưa đến nay gần như mọi người ai nấy đều quả quyết như vậy ?! Có phải là để thoát khỏi mặc cảm tự ti man di, nghèo đói, thua kém của một nước luôn bị coi là nhược tiểu từ xưa nay ? Hay là để giành lại chủ quyền của một tổ quốc luôn tự hào với (trên) bốn ngàn năm văn hiến ? (Nếu văn hóa Việt bắt nguồn từ Trung Quốc, th́ tổ tiên ta (nếu) nói thế này có phải là nói ngoa, nói dóc, nói láo để mà “ tự sướng ” và ru ngủ con cháu ?!)
Thưa, không để thoát và cũng không giành ǵ hết. Nhưng v́ việc đi t́m Sự Thật (c̣n gọi là Chân Lư, là Đạo, là Đường, là Chính Nghĩa, là Thượng Đế, là Thiên Chúa, …) không những là động lực sống, tức nguồn sống thiêng liêng của mỗi người, mà c̣n là để t́m lại cái Thiên tính thể hiện nơi mỗi người, nên mới gọi là Nhân Tính, Nhân Tâm vậy. Cái nhân tâm đó cũng giống như cái “ ID.”(identity) vô h́nh của ḿnh với tất cả chiều kích của tinh, khí, thần với ư, t́nh, chí, theo đối tượng chân, thiện, mỹ… Vả lại, v́ Chúa Giêsu đă nói : “ Thế th́ của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa. ” (Mt 22, 21). V́ vậy, chúng ta có bổn phận phải đi t́m Sự Thật.
Tuy biết rằng sự thật mất ḷng, nhưng ông bà xưa cũng có nói “ thuốc đắng dă tật ” , do đó, ở đây người viết không thể áp dụng chủ trương “mackeno” (mặc kệ nó), mà để cho thiên hạ mạnh ai nấy tự cho ḿnh trí thức v́ biết viết “ lách ” (kiểu tiến sĩ giấy), rồi tha hồ múa gậy vườn hoang ! V́ thật là bất nhơn và bất nghĩa cho tôi nếu tôi không lên tiếng về vấn đề này, như Nguyễn Trường Tộ đă nói : “ Biết mà không nói là bất nhân. Nói mà không nói hết là bất nghĩa ”.
Do đó, nhân dịp Tết Ất Mùi 2015, trong khuôn khổ bài này người viết xin được nhắc lại một cách khẳng định rằng Văn hóa Nông nghiệp là văn hóa của Việt tộc kể từ thời Ḥa B́nh; tức là cách nay chắc chắn ít nữa trên mười ngàn năm, v́ vậy đă có trước văn hóa du mục của phường xâm lăng phương Bắc. (Để dẫn chứng điều này cho những ai muốn t́m hiểu, xin xem các tài liệu đáng tin cậy gần đây như : “Kết quả mới nhất thuyết phục nhất về cội nguồn phát tích của Việt tộc” của học giả Phạm Trần Anh, “ Hành T́nh T́m Về Cội Nguồn “ của sử gia Hà Văn Thùy, “Nguồn gốc chữ Nôm “ của tác giả Đỗ Thanh, hay “ Việt Nam, Suối Nguồn Văn Minh Phương Đông ”, hoặc “ Bách Việt Tiên Hiền Chí ” , và nhiều tài liệu khác mà bạn có thể t́m đọc trên mạng “ Việt Nam Văn Hiến ” hay những trang mạng văn hóa đáng tin cậy khác).
V́ vậy, mà mỗi người Việt chúng ta cần phải cập nhật thông tin bằng cách t́m lại cội nguồn văn hóa của ḿnh. Hay chỉ cần tự hỏi một cách đơn giản là nếu như Tết Nguyên Đán có nguồn gốc từ Trung Hoa th́ tại sao người Việt ḿnh có phong tục ăn bánh dày, bánh chưng, hay bánh tét vào dịp Tết Nguyên Đán c̣n người Tàu th́ không ?! Hay, nếu như văn hóa của Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Hoa, th́ tại sao trong đời sống thực tế mỗi ngày từ xưa đến nay, người Tàu ăn x́ dầu c̣n người Việt ḿnh lại ăn nước mắm ?! Hoặc, tại sao cách xưng hô của người Hoa là “ ngộ ” với “ nị ”, c̣n đối với người Việt ḿnh lại là anh em, chú thím, cậu mợ, d́ dượng, cô bác… ?!
Dĩ nhiên, câu trả lời đơn giản là tại v́ Việt tộc có nền Văn hóa Nông nghiệp là môi trường đă làm cho con người biết “ Trông trời trông đất trông mây / Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm / Trông cho chân cứng đá mềm / Trời yên bể lặng mới yên tấm ḷng ” (ca dao). Đó chính là triết lư sống hay c̣n gọi là triết lư nhân sinh, hay triết lư sống Đạo làm Người đă có ít nữa trên bốn ngàn năm. Do đó, nền văn hóa nông nghiệp của Việt tộc đă có trước văn hóa du mục của Hoa tộc từ lâu đời. Nên chúng ta có thể nói một cách ngược lại rằng văn minh Hoa tộc ngày nay chính là đồ “ tam sao thất bổn ” của văn hóa Việt tộc ngày xưa, để đừng nói là đồ ăn cắp. V́ vậy, khi ai đó khẳng định văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ văn hóa Trung Hoa, là hoàn toàn sai bét để đừng nói là “ dốt hay nói chữ ” !
Phải nói rằng phong tục của người Tàu mới là mê tín dị đoan, v́ họ không phải là tác giả của nền minh triết Việt, nên đă không thấu hiểu nổi cái Tinh Hoa của Văn Hóa nông nghiệp của Việt tộc đă được đúc kết trong Kinh Dịch. V́ vậy, mà bọn thanh giáo từ thời Tần, Hán đến các triều đại về sau cho tới ngày nay chỉ coi Kinh Dịch như là sách bói toán, v́ đă không thể hiểu được Kinh Dịch. Để chứng minh đầu óc mê tín dị đoan của bọn du mục phương Bắc v́ không có Minh Triết, tức quân không có Đạo như Khổng Tử đă nói : “ Khoan nhu dĩ giáo ; bất báo vô đạo. Nam phương chi cường dă; quân tử cư chi ” (Trung Dung câu 10), nghĩa là “ hăy lấy đức tính khoan hồng mềm dịu để giáo huấn và chinh phục, chứ không báo thù kẻ vô đạo. Đó là đức tính hùng cường của người phương Nam, nên người quân tử ở đó ”; người viết muốn dẫn chứng một sự việc hiển nhiên trong quá khứ với chuyện Hà Bá của bọn Vu Nghiễn sau đây :
“ Ở đây chỉ xin ghi lại một sự tích rất ngoạn mục là việc Hà Bá cưới vợ. Theo tục đó mỗi năm người ta phải gởi xuống sông Hoàng Hà một cô gái đặng làm vợ Hà Bá, để ngài khỏi dâng nước sông Chương Hà lên làm lụt lội. Tục này gọi là “ lễ Hà Bá thú phụ ” được cử hành đại khái như sau : các Vu nghiễn(*) chọn trong miền một cô gái xinh đẹp nhất, rồi đến ngày đă định cho họ lập một “ trai cung ” trên bờ sông, mua sắm lễ vật cúng tế, cho người con gái tắm gội sạch sẽ, xong th́ đặt ngồi trên chiếc bè cỏ thả trôi giữa ḍng, đi được vài dặm th́ bè ch́m kéo theo cô gái xuống ḷng sông. H́nh ảnh bi ai này có thể làm ta mường tượng tới h́nh dáng Phục Phi trầm ḿnh trong sông Lạc để trở thành thần sông ấy. Nhưng đó là ư nghĩa minh triết, c̣n đối với đại chúng cũng như Vu nghiễn th́ chỉ để làm vợ Hà Bá. Và ai nhận ngay ra rằng nhờ vào tŕnh độ dân chúng c̣n mê tín dị đoan như thế, nên cưới vợ Hà Bá trở thành dịp may cho Vu nghiễn khai thác dân chúng trong vùng, và họ đă tận dụng t́nh thế như sau:
Trước hết họ ghi công đức từng trăm ngàn quan tiền để tổ chức lễ cưới, sau đó đi xem mắt các cô gái để lựa chọn vợ Hà Bá. Cái vụ này c̣n ăn to hơn lượt đi công đức, v́ bao nhiêu nhà có con gái dầu là xấu, đều phải đút lót với các Vu nghiễn và các hào lăo trong ban tuyển lựa. V́ xấu có thể cho là đẹp và ngược lại tuỳ sự biết điều của bố mẹ. Lệ tục dị đoan này phát xuất từ phía Tây (Danses 473) và lan xuống phía Đông đến Nghiệp Đô tiếp giáp với nước Hàn và Triệu th́ bị tinh thần Hà Lạc chặn đứng do một Nho gia tên là Tây Môn Báo mới được Nguỵ hầu (423-387 tr.dl) sai ra làm thái thú Nghiệp Đô. Năm ấy quan thái thú mới nhận chức ngỏ ư sẽ đích thân ra dự lễ cưới để thêm phần long trọng. Đến nơi quan được tiếp đón trọng thể do toàn cộng đồng Hà Vu gồm có Lăo Vu và các đệ tử mỗi người cầm một b́nh hương, theo sau là các bô lăo và nhiều ngàn người tham dự. Đến nơi Tây Môn Báo ngỏ ư muốn được xem mặt vợ Hà Bá kỳ này như thế nào, người ta dẫn đến một cô gái đang tràn trề nước mắt và đầy vẻ kinh sợ.
Tây Môn Báo nói : vợ Há Bá phải là một mỹ nữ tuyệt trần, người này tầm thường quá ta e Hà Bá không chịu, vậy bản chức xin Lăo bà xuống tŕnh với Hà Bá là quan thái thú muốn kén cho ngài một bà vợ tuyệt thế giai nhân, xin cảm phiền đợi cho ít bữa. Nói rồi truyền ném bà đồng xuống sông trước sự kinh sợ của mọi người. Đợi một lúc ông tiếp: bà này già làm không nên chuyện, sai có một việc mà năy giờ chưa lên. Liền truyền vất xuống một đệ tử… Đợi một lúc quay về phía các hào lăo nói: bọn đàn bà con gái đi lại chậm chạp, nói năng không nên lời, bản chức phải nhờ đến các ông, liền sai bắt một hào lăo ném xuống sông… Tất cả bọn đều quỳ xuống lạy xin tha và thú hết tội lỗi… và từ đấy Nghiệp Đô hết nạn Hà Bá lấy vợ.
V́ tâm trạng người nay đă tiến xa nên rất có thể chúng ta coi việc của Tây Môn Báo là rất thường hoặc chỉ như một việc lẻ tẻ do một ông quan nào bất cứ hể có óc sáng suốt đều làm được bấy nhiêu. Ư nghĩ đó có thể chấp nhận khi chỉ căn cứ vào một câu chuyện Hà Bá cưới vợ, và việc giải thoát không quan trọng lắm, v́ một đàng những bày bịa của bọn Vu nghiễn c̣n quá thô sơ, lối tổ chức c̣n quá lỏng lẻo chưa thiết lập thành một hệ thống lớn th́ thắng được không đến nỗi khó. Tuy vậy nếu xem vào toàn cảnh của nền văn hóa Việt Nho ta mới nhận ra đó không phải là một việc lẻ tẻ mà nó là tượng trưng cho cả một hệ thống giải thoát con người nhiều khi rất tinh vi. Thí dụ việc ngăn cản tục lệ miền Tây Bắc hay chôn người sống cùng với người chết (xem Lễ Kư I tr.226). Tục lệ bắt các bà góa tử tiết theo chồng (Religion 119). Việc thay tượng người chết bằng bài vị, việc hiến dần dần cho lễ gia tiên trở thành lễ kỷ niệm người đă khuất và trở nên dịp cho gia tộc hội họp để nhắc nhở đức độ người đă qua bằng những cử chỉ có tính cách tế vi, nhưng lại không được xin xỏ cái chi ích kỷ, tư riêng, nhưng tất cả phải là ích chung… (xem Religion tr.108) việc truyền bá ḷng tin rằng tinh hoa tôn giáo là chu toàn được bổn phận công dân theo những lễ tục của nước và vun tưới một tâm hồn vô vị lợi để tuân theo luật thiên niên phổ biến, để đạt nền minh triết cũng như làm cho lánh xa những lư thuyết cùng những hành động huyền bí, ma thuật, xin xỏ những ǵ tư riêng cho ḿnh (Religion 120).
Đó chỉ là một số việc điển h́nh được nói phớt qua, và c̣n biết bao truyện khác.V́ thế việc phá dị đoan cưới vợ Hà Bá phải được coi là tiêu biểu cho một bước tiến vượt bực từ bái vật sang đến văn tổ, tức là nền nhân bản tâm linh cũng là “ căn bản triết lư trong văn hóa Việt Nam ”. Hay là nói theo danh hiệu của nước ta là “ căn bản triết lư trong văn hóa Hà Lạc, Lạc Việt ”. Cái nền đó đă đạt giai đoạn thứ ba gọi là minh triết, được hiểu theo Fichte “ là nghệ thuật chọn lựa những vấn đề mà sự giải quyết liên hệ tới con người ”. “ La sagesse est l’art de choisir les problèmes dont la solution intéresse l’homme ”. Điều này đ̣i phải có một sự thâm hiểu những nhu yếu chính cốt của con người mới đặt được vấn đề, hay chọn lựa được những đề tài liên hệ mật thiết đến con người muôn thưở. Đó là đợt cao nhất mà cho tới nay mới có nền minh triết Hà Lạc, đạt tới nhưng đă quên đi rồi, và hiện đang bước trở lại giai đoạn Hà Vu (bái vật) hoặc ư hệ mà không ngờ rằng đó là những giai đoạn mà tiên tổ đă phải dùng hết óc tinh anh mới vượt qua được. Giai đoạn ư hệ bên Viễn Đông chỉ hơi h́nh thành trong bước Hà Đồ, nhưng rồi bị vượt qua liền bằng giai đoạn Lạc Thư, (xem Dịch Kinh Linh thể) cũng như đă vượt qua giai đoạn Vu tưởng. ” (trích tác phẩm “Việt Lư Tố Nguyên” của GS. Kim Định)
(*): Vu Nghiễn là một thứ tôn giáo cổ truyền nặng chất pháp môn, phù thuỷ, đồng bóng… của những miền Tây Bắc, Tây Tạng, Thanh Hải, Hồi, Kim…
Do đó, phong tục ĺ x́ cũng như những mỹ tục khác của VN chắc chắn là không bắt nguồn từ Trung Hoa. Và tiếp sau đây người viết sẽ minh chứng phong tục ĺ x́ tại sao không hề là mê tín dị đoan.
Ĺ X́
là gốc tiếng Nôm nói trại ra từ chữ “ lợi thị ” . V́ vậy, người ta thường hiểu sai với nghĩa là lợi lộc, tiền của, hay giàu có với sự mua bán đổi chác… ở ngoài chợ (thị). Nhưng chữ “ thị ” ở đây là chữ Hán viết với bộ “ thị ” (có âm “ kỳ ”) nên có nguyên nghĩa là Tổ, hay Thần tức thần thổ/địa (đất), nên cần được hiểu với nghĩa rộng là lễ Tế Tổ, Tế Thần c̣n gọi là lễ “ Tế Giao ”. V́ Kinh Dịch đă ghi : “ Thiên Địa giao nhi vạn vật thông dă ” (quẻ Thái), tức “ Thiên Địa có giao th́ vạn vật mới hanh thông ”.
C̣n chữ “ lợi ” viết với bộ “ đao ”, có nguyên nghĩa là đẹp đẽ thuận lợi, v́ đó là 1 trong 4 đức tính của quẻ Càn (Kiền) : nguyên, hanh, lợi, trinh. Như vậy, ĺ x́ cần được hiểu rộng với nghĩa “ Thiên thời, Địa lợi, Nhân ḥa ”, tức là nghĩa thuận lợi và tốt đẹp bền vững cho mọi chuyện, nếu một khi con người biết sống ư thức để Ḥa với Trời và Giao với Đất. Do đó, người Việt ḿnh mới nói là sống “ thuận thiên ” th́ mới có kết quả tốt đẹp với lợi lộc, nên mới gọi là “ mỹ lợi ”. V́ vậy, Kinh Dịch có câu : “ lợi giả nghĩa chi ḥa dă ” , có nghĩa là có được sự ḥa hợp những cái thích nghi cân xứng th́ đó là “ lợi ”.
Do đó, Tết Nguyên Đán chính là lễ Tế Giao của con người với Trời Đất nhân một chu kỳ mới cho vạn vật sinh sinh hóa hóa. Hay nói cách khác là Thiên Địa tịnh sinh cùng sinh ra trong một cuộc giao hợp bất tận. V́ vậy, sứ mệnh tối hậu của con người là mở rộng được mối giao hợp ấy bằng một nhận thức thực là sâu xa cũng như nuôi dưỡng cho nó lớn lên. Do lẽ đó mà lễ quan trọng hơn hết trong nền văn hóa Việt Nho chính là lễ Tế Giao để nhắc nhở cho con người cái sứ mệnh đó.
Và muốn có được sự nhận thức sâu xa đó, con người cần được trút bỏ hết mọi tham, sân, si… trong đời sống mỗi ngày. Tức là phải làm cho cái tâm ḿnh trống rỗng hay phẳng lặng như mặt nước (tâm b́nh như thủy) để mới cảm thấy và nhận biết được Sự Thật nơi ḿnh. Đó chính là sự hoan lạc, là hạnh phúc qua sự hiệp thông với Trời và giao thực với Đất, như Kinh Dịch có câu : “ giao lạc hồ Thiên ; giao thực hồ Địa ” . Đó là lư do chính đáng mà tổ tiên Việt tộc mới ăn mừng Tết Nguyên Đán kéo dài cả tháng, và bày ra đủ thứ lễ nghi phong tục để ăn chơi. V́ “ hóa nhi đa hí lộng ” có nghĩa phải trở thành con nít th́ mới vui chơi nhiều được. Ư nghĩa này tương tự như trong Phúc âm, Chúa Giêsu đă nói : “… nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, th́ sẽ chẳng được vào nước Trời ” (Mt 18, 3). Tức là phải có tâm hồn đơn sơ, trong trắng, khiêm nhường như trẻ nhỏ, không hề vướng víu bụi trần như danh lợi, quyền lực, tiền của, v.v… th́ mới được gặp Chúa, là suối nguồn hoan lạc và hạnh phúc.
V́ vậy, phải hồn nhiên khi ăn và vui vẻ khi chơi. V́ chỉ khi ăn tự nhiên và chơi vui vẻ con người mới có thể khuây khỏa để quên hết những lo lắng phiền muộn và ham muốn, để mới có thể vượt lên tới Đạo, tới Trời, tới Chúa. Do đó, mà tục ngữ ta mới có câu : “ Có thực mới vực được Đạo ” hay ca dao cũng có những câu như : “ Ăn chơi cho thỏa tḥa thoa / Có năm bức áo xé tà cả năm ”, hoặc “ Chơi cho bể hẹp bằng ao / Chơi cho trái núi lọt vào trôn kim / Chơi cho bong bóng th́ ch́m / Ḥn đá th́ nổi, gỗ lim lập lờ ”, có nghĩa là phải sống sao cho “ an nhiên tự tại ”, tức là làm cho cái tiểu ngă chấp ta, ngă mạn tức ích kỷ, kiêu ngạo của ḿnh trở thành Đại Ngă với chiều kích vô biên. Đó chính là thành Nhân, thành Thánh để hợp nhất nên một với Trời Đất là Thiên Chúa vậy.
Do đó, phong tục ĺ x́ với nghĩa nguyên thủy chính là sự cúng Tế Tổ, Tế Thần, để Tế giao với Trời Đất Thiên Địa. V́ Thiên không có nghĩa là Trời với bầu trời xanh như người ta thường hiểu, mà chính là Tâm, là sự sống với chiều kích vô biên, là ánh sáng soi đường dẫn lối cho tư tưởng của con người để đi t́m Sự Thật. Và Địa không là nghĩa như mảnh đất trải dài trước mắt với núi đồi, cây cỏ…, mà phải hiểu là nguồn sống uyên nguyên sinh ra vạn vật, nên được biểu thị bằng chữ Sinh. C̣n Nhân ở đây, theo nghĩa tam tài “ Thiên-Địa-Nhân ”, không có nghĩa là người với h́nh bóng ông đi qua, bà đi lại ; mà Nhân là sự giao hỗ tụ hội của hai luồng sinh lực Thiên Địa làm nên Tính Bản Nhiên. Cho nên Thiên Địa hay Trời Đất là hai luồng Tâm Sinh với bản chất Siêu Linh, là hoạt lực vô biên biểu lộ bản tính trọn hảo vô cùng làm nên tiết điệu căn cơ của con người, nên c̣n gọi là Nhân Tính. V́ vậy, Nhân Tính hay Tính Bản Nhiên c̣n có thể nói là sự tương quan sống động giữa hai luồng khí Âm Dương, hay như Kinh Lễ định nghĩa : “Nhân giả kỳ Thiên Địa chi Đức, Âm Dương chi giao, Quỷ Thần chi hội, Ngũ Hành chi tú khí ”, lược nghĩa : “ con người là cái Đức của Thiên Địa, là sự tương giao ḥa hợp của hai luồng nguyên khí Âm Dương, là sự hội tụ của Quỷ Thần, là sự kết hợp của năm tinh khí Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ ”.
Hay có thể nói cách tương tự, để hội nhập tinh hoa văn hóa của Việt tộc với tinh thần Phúc âm, th́ con người chính là sự Nhập thể của Ngôi Lời. Như Chúa Giêsu đă minh chứng qua sự Nhập thể làm Người với cuộc khổ nạn đau thương bởi cái chết và sự phục sinh của Ngài. Ngài đồng thời vừa là Chúa Cha, Chúa Con và là Chúa Thánh Thần. Đó là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi và chính là nền tảng của Thiên Chúa giáo. V́ như Ngài đă nói : “ Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. ”(Ga 14, 6). Và : “ Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn măi. Đó là Thần Khí Sự Thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, v́ thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. C̣n anh em biết Người, v́ Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. ” (Ga 14,16-17)
Thật vậy, mỗi người chúng ta nếu không thấy, cũng chẳng muốn t́m hiểu để biết Chúa Giêsu, th́ làm sao có thể đón nhận Ngài ? Tương tự, nếu người Việt chúng ta không hiểu được ư nghĩa căn bản của những chữ mà ḿnh nói hằng ngày như “ Thiên-Địa-Nhân ” ; th́ làm sao có thể thấu hiểu triết lư Tam Tài với “ Thiên thời - Địa lợi - Nhân ḥa ” để có thể nhận thức và ư thức hầu sống Thuận Thiên, tức cũng là sống Vâng theo Thánh Ư Chúa ? V́ vậy, đọc đến đây người viết nghĩ rằng mỗi người chúng ta biết cần phải làm ǵ để đón nhận Sự Thật.
Tóm lại, với những ǵ mà người viết đă đề cập trong khuôn khổ giới hạn của bài viết này, chắc chắn sẽ c̣n nhiều thiếu sót. Nhưng vấn đề nguồn gốc văn hóa VN và phong tục ĺ x́ nhân dịp Tết Nguyên Đán, người viết dám khẳng định một cách quả quyết rằng nó hoàn toàn không bắt nguồn từ văn hóa Trung Hoa. V́ đă có quá nhiều sự khác biệt từ nghi thức phong tục tập quán đến nội dung ư nghĩa của lễ nghi, mà với văn hóa một chiều của du mục phương Bắc trọng nam khinh nữ, chuộng cương chê nhu, trọng lư hơn t́nh,… th́ không thể cắt nghĩa một cách nhất quán được. V́ vậy, mới gọi là mê tín dị đoan như chuyện Hà Bá là tiêu biểu nhất.
C̣n phong tục ĺ x́ của VN là h́nh thức tiếp nối của lễ Tế Giao là lễ quan trọng nhất trong văn hóa VN, với ư nghĩa có thể nói tương tự như Thánh Lễ trong Kitô giáo. Nên bao ĺ x́ có màu đỏ (mà không là màu vàng hay màu khác), v́ màu đỏ là màu của Hành Hỏa, biểu tượng cho ánh sáng (nên mới nói là hỏa châu) để soi sáng “ Tâm thức ” con người, để soi đường dẫn lối cho con người biết đường sống Đạo, tức là biết sống trọn vẹn cái Nhân Tính hay c̣n gọi là Tính Bản Nhiên của ḿnh. Có thể nói tương tự, màu đỏ cũng là biểu tượng cho “ Lửa ” trên đầu các thánh Tông đồ, chính là ánh sáng của Chúa Thánh Thần để soi sáng cho con người biết sống 7 ơn của Chúa Thánh Thần. Đó là :
1/ Ơn Khôn ngoan : để phân biệt điều phải/trái, đúng/sai, c̣n gọi là ơn phân định. (trí tri tại cách vật)
2/ Ơn Hiểu biết : để nhận thức sâu xa Lời Chúa và sống những điều Chúa dạy. (trí giả bất hoặc)
3/ Ơn Biết lo liệu : để giúp ta biết hành động theo ư Chúa trong đời sống. (nhân giả bất ưu)
4/ Ơn Sức mạnh : để giúp ta không sợ khó khăn để đi t́m Chúa là Sự Thật. (dũng giả bất cụ)
5/ Ơn Thông minh : để nhận biết ra thánh ư Chúa hầu hành động cho đúng. (kiến cơ nhi tác)
6/ Ơn Đạo đức : để tin-cậy-mến Chúa và sống bác ái với tha nhân. (tính chi đức dă)
7/ Ơn Kính sợ Thiên Chúa : để ta tôn kính Ngài hết ḷng, hết trí, hết sức ḿnh. (thuận tính mệnh chí lư)
Vậy nếu mỗi người chúng ta nhận thức và ư thức được những ư nghĩa đó, th́ phong tục ĺ x́ trong dịp Tết có phải là mê tín dị đoan không ??!
Viết xong, ngày 24 tháng Chạp năm Giáp Ngọ 2014.
(tức 12 tháng 2 năm 2015)
Sơn Hà.
Phần tham khảo thêm :
TẾT LÀ G̀ ?
“ Muốn hiểu được tầm quan trọng của Tết cần nhớ lại với Việt Nho th́ siêu h́nh là thời gian và t́nh cảm. Cả hai đều vô h́nh nhưng lại có thực; đó chính là chất liệu làm nên con người, tràn ngập toàn thể con người dưới tên bao quát là t́nh, tâm t́nh. Đó là then chốt của con người, con người cần phải “ tùy thời ”. “ Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai ”, v́ tùy thời cũng chính là sống theo t́nh theo tính, tức là Đạo. Đó là những việc không thể bỏ dù một giây. Nhưng có những lúc cần trọng thể hóa: như những thời điểm khởi đầu mùa, đầu năm Nho gọi là tiết, ta đọc là Tết. Đó là ngành ngọn của chữ Thời.
C̣n ngành t́nh th́ ta thấy nữ thần Mộc săn sóc cho mối t́nh nảy nở qua thể chế gia đ́nh : rồi nhiều gia đ́nh làm nên làng xă. Hàng ngày sống t́nh gia đ́nh, nhưng lâu lâu vào những khởi điểm cũng cần sống theo chiều kích toàn thể của ḿnh, cái sống của công thể. Sống đầy đủ nhất tự ăn uống, chơi đùa, cho tới ca hát, tế tự. Đấy là lư do thâm sâu của các cuộc hội hè đ́nh đám kéo dài : đó là sự tác động của một nền siêu h́nh trung thực hơn hết, đáng được coi là khôn sáng thông giỏi hơn cả. Vua Hùng Vương chỉ truyền ngôi cho công tử Lang Liêu v́ đă biết tŕnh bầy việc ăn uống ngày Tết như h́nh trời đất, và dân chúng đă thấu hiểu triết lư đó nên kêu là vua Tiết Liệu : tiếng này vừa có nghĩa món ăn ngày tết, mà cũng hàm ư biết lo liệu đúng tiết điệu của đất, trời, người.
Như thế, Tết hay hội hè đ́nh đám chính là những phút linh thiêng mà con người dùng để sống ḥa điệu với nhịp vũ trụ của hóa công được quan niệm như trẻ thơ ca múa “ hóa nhi đa hí lộng”, để cho đúng câu “ thiên nhân tương dữ ” trời người cùng tham dự. Tham dự chi ? Thưa cụ thể là tham dự cùng một tiết nhịp. V́ thế Tết cũng kêu là tiết : có bao nhiêu Tết là có bấy nhiêu tiết. Mỗi Tết trở nên cơ hội cho con người sống đời sống của Đại Ngă Tâm Linh, sống ḥa ḿnh vào nhịp vũ trụ, để con người sống những giây phút an hành vượt hẳn ra ngoài ṿng danh lợi của hai đợt cưỡng hành lợi hành. Chỉ ở đợt an hành con người mới dễ sống thanh thản trong bầu khí bao la của trời cùng đất.
Đây là lư do sâu thẳm tại sao Tết với những hội hè kèm theo được coi là thiết yếu cho con người để phát triển những khả thể vô biên của ḿnh, là cái giúp con người khỏi thiên lệch sang trời hay đất, tức làm nô lệ cho những cái ngoài ḿnh như tiền tài, quyền quư. Đất biểu thị những ǵ bé nhỏ chỉ bằng những góc cạnh (bốn phương) như những nhu cầu ăn uống, đó là lối tác hành hiện ra h́nh thể có tính cách thúc bách, nó trói buộc con người vào vật thể, nếu không có những lúc dành riêng để tâm hồn thoát lên th́ rồi sẽ bị trói chặt măi vào đất để cho hạ tầng kinh tế chỉ huy trọn vẹn; kết cục là con người bị biến thành những dụng cụ sản xuất, những máy tự động vô hồn, không c̣n nghĩ tới được thượng tầng, đành trở nên những con người què quặt v́ đánh mất toàn vẹn Tính của ḿnh gồm không những hạ tầng như phải ăn, uống mà c̣n cả thượng tầng tâm linh, thượng tầng văn hóa.
V́ thế thượng tầng cũng phải tác hành, nhưng đi lối khác hạ tầng kinh tế v́ nó là trời tṛn đầy viên măn có thiếu chi đâu mà phải lợi hành, nên có thể an hành tức là hành bằng tiết nhịp: làm không phải để được cái chi mà để triển diễn chiều kích vô biên của con người. Triết lư chơi nằm ở chỗ đó, ở chỗ hành không phải để được cái chi cả. Đúng hơn là không nhằm những cái nhỏ bé có thể trở thành mục tiêu, nhưng nhằm thỏa măn chiều kích vô biên nơi con người, như để con người được tập dượt cho quen dần đặng vượt lên cơi bao la bên ngoài lợi lộc để phát triển sự toàn vẹn của ḿnh.
Sự toàn vẹn bao gồm cả đức trời cả đức đất. Về phương diện đức đất con người phải lao động sản xuất, phải làm mà ăn. Tục ngữ quen nói: “ tay có làm th́ hàm mới nhai ”. Nhưng con người không chỉ có hàm mà c̣n nhiều cái khác, mà bao la hơn cả là tâm, là t́nh. T́nh, tâm phải lớn bằng vũ trụ để trở nên vũ trụ chi tâm. Nói kiểu khác là đức của trời, và tới đây th́ phải biết ăn chơi.
Chơi cũng gọi là ăn sao? Thưa rằng tại sao không. Nếu ăn là để nuôi dưỡng xác thân, th́ chơi là để nuôi dưỡng cái chiều kích vô biên của con người nghĩa là những đức tính không thể đo lường bằng ích dụng, thí dụ những mối t́nh cao thượng về yêu thương, ḥa b́nh, quảng đại, những khát mong hướng về chân, thiện, mỹ, toàn là những đức tính vô h́nh, nên thường bị coi như vô ích nhưng khi nh́n con người toàn diện lại thấy cần biết mấy. V́ thế mà trên đời chưa có cái hữu ích nào đắt bằng những cái “ vô ích ”: một bức họa thời danh nhỏ có thể trả cả triệu dollars vẫn chưa mua được là v́ thế, đúng ra v́ nó vô giá. Vô giá vừa có nghĩa “ vô ích ” vừa có nghĩa là có giá vô ngần. Đó là bằng chứng bất ngờ nói lên sự cao trọng của những cái “ vô ích ”. V́ hữu ích là hạn cục vào một mục tiêu; cây viết có ích để viết th́ không ích cho việc chỉ giờ. Đồng hồ có ích chỉ giờ th́ vô ích cho sự xê dịch... mỗi sự hữu ích là một hạn cục, không c̣n lối mở vào cơi vô biên cho nên cần thiết phải có chơi để khỏi biến con người thành một dụng cụ “ có ích ”. Cần làm sao cho con người măi măi là một thực thể “ vô ích ” để có khả năng thông đạt với cơi vô biên đă vượt xa khỏi b́nh diện có ích với không có ích. Triết lư chơi nằm trong đó, chơi tuy vô ích mà lại rất phổ biến, ai cũng ham chơi, mà lư tưởng là phải chơi.
Tuy nhiên đặt ra được một triết lư chơi thật họa hiếm, nó đ̣i phải có hai điều; một là phải có triết lư chữ Thời biết coi trọng tiết nhịp hai là phải có cảnh phong nhiêu phồn thịnh. Trước hết hăy nói về chữ Thời mà cụ thể là tiết nhịp. Chơi mà thực đúng tiết th́ phải được tổ chức vào những đầu tiết nhịp y như hát múa đều cần có nhịp nên ít ra phải theo được cung đầu và cuối của câu nhạc. Ở những cung giữa có sao nhăng hoặc bớt hay thêm một vài nốt nhạc cũng được, nhưng khi đến đầu nhịp th́ mọi tay chơi phải ḥa vào để đạt ḥa âm. V́ thế mà thời xưa có niềm tin rằng ca vũ là phương tiện để thông giao với quỷ thần.
Đó chẳng qua là niềm tin của thời ma thuật, c̣n chính ra là để thông giao cùng tiết nhịp trời đất. Đó là ư nghĩa Tết. V́ thế Việt Nho là miền có lệ ăn Tết dài nhất, th́ cũng có thể coi là đạo đức nhất, tiến xa nhất trên thang tiến hóa. Đó là điểm một. Điểm hai cũng cần lưu ư đó là có nhiều tết hơn cả, bởi chưng Tết là lễ, tức là lúc để dành thời giờ cho việc thích nghi với tiết nhịp, hai chữ nghi lễ là do đấy. Do quan niệm lưỡng thê: một tác hành sản xuất cho thân xác, một an nghỉ cho tâm hồn. Lưỡng nghi là phải thích nghi cả với dưới lẫn với trên mới là triết theo nghĩa đầy đủ. Trong khi lao tác có thể lạc nhịp nên cần phải có Tết để cho hợp tiết. V́ thế hai Tết to nhất nhằm vào hai mùa Xuân Thu tức hai mùa của con người (trục phân hàng ngang). C̣n hai Tết thuộc trục chí là hàn thực và lễ lửa th́ coi là tùy thuộc theo quan niệm nhân chủ đặt nặng trục ngang (xem “ Triết Lư Cái Đ́nh ”)
Thế là xong cái vụ tháng giêng ăn Tết ở nhà. C̣n tháng hai sao? Chữ hai chỉ đất chỉ tiền tài, nên đưa đạo chơi vào cho đừng quá bám vào tiền tài là cái dễ chạy dễ thay chủ. Tuy nhiên v́ cờ bạc dễ sa đọa nên xin đổi ra tập nhạc, hoặc học Dịch hay tu luyện chi đó. ” (trích tác phẩm “Phong Thái An-Vi” của GS. Kim-Định)
Bookmarks