Cali Today News – Nhiều ư kiến của độc giả đă bàn luận thêm vào bài báo “Hăy băi bỏ Tết "ta" và Tết "Trung thu" của Nguyễn Khắc Anh Tâm, mà chúng tôï trích đăng lại từ các diễn đàn. Nhiều ư kiến bênh hay chống đều rất hay, giúp chúng ta nh́n vấn đề rơ ràng hơn qua nhiều góc độ. Trong những bài viết về vấn đề này, có bài viết khá dài của anh Linh Vũ và hôm nay, anh Nguyễn Khắc Anh Tâm có chuyển đến ṭa soạn lá thư của Lê Minh Thu gởi cho anh với những ư kiến khá lạ. Ṭa soạn trân trọng giới thiệu đến qúy độc giả. Tựa đề do ṭa soạn đặt. Chúng tôi thiết nghĩ cần có một cuộc hội thảo khoa học nghiêm túc về vấn đề mà anh Nguyễn Khắc Anh Tâm đă nêu ra, v́ đây là vấn đề quan trọng của chúng ta.


Một khi có những người Việt trí thức làm báo điện tử như "Cali Today News" với đề nghị "cần có một cuộc hội thảo khoa học nghiêm túc về vấn đề băi bỏ Tết Nguyên Đán" như trên theo ư kiến của một số độc giả vong bản, th́ chứng tỏ hạng người Việt trí thức này chỉ biết có "tự do ngôn luận" mà không c̣n khả năng nhận định với nền tảng của sự đúng hay sai. Nhưng lại cho phổ biến những bài viết về văn hóa Việt Nam mà nội dung lại không những phản văn hóa, mà c̣n là xuyên tạc, th́ phải nói hạng trí thức Việt làm báo kiểu này đúng là mất gốc, để đừng nói đúng là báo hại !

Như ông Nguyễn Khắc Anh Tâm (NKAT) tuy có đầy thiện chí với ḷng yêu nước, nhưng lại không có "chí tri" tới "tận kỳ tính" nên đă không thấu hiểu cội nguồn văn hóa dân tộc, mà lại đi cổ động "Băi bỏ Tết Ta và Tết Trung Thu" với lư lẽ tại v́ Tết Ta và Tết Trung Thu là do ảnh hưởng của văn hóa Tàu, th́ đúng là vong bản (mất gốc) để đừng nói là "báo hại" v́ vô t́nh (hay cố ư ?) phá hoại khi đi gieo rắc tư tưởng sai lầm, để đừng nói là tuyên truyền xuyên tạc ! V́ vậy, mà tôi đă phản biện qua bài viết "Có nên bỏ Tết Nguyên Đán hay không ?" . Nên trước khi đề cập đến ư nghĩa của những phong tục ngày Tết trong khuôn khổ bài này, tôi thiết tưởng cũng cần nhắc lại cho hạng trí thức mất gốc như ông NKAT, tuy có đầy ḷng yêu nước, nhưng không có “chí tri” nên không thể biết được ǵ, th́ làm sao biết được thiên mệnh, cho nên không thể là quân tử. V́ như có câu : "bất tri thiên mệnh, vô dĩ vi quân tử". V́ vậy, ông NKAT mới viết :

“Hay v́ chúng ta vẫn mang trong người tinh thần nhu nhược, hèn mọn của một giống dân muôn đời thà làm nô lệ cho ngoại bang c̣n hơn thay đổi thói quen ăn cái Tết của ngoại bang, ăn bánh Trung thu của ngoại bang, rồi tự xưng cái "ăn theo" đó là văn hoá của ḿnh?

Có lẽ t. sống dựa theo tinh thần tự lực cánh sinh, tinh thần làm chứ không ngồi ĺ mà tán dóc, hứa hẹn, thề non hẹn biển, hoàn toàn practical khi đă feasible, nên chi t. khinh miệt những thái độ ra vẻ hiểu biết, nh́n xa hiểu rộng, yêu nước với tinh thần "ăn theo" hèn mọn đó, cứ nhất định chống Tàu bằng... mồm.”
(trích đoạn trong bài “Hăy băi bỏ Tết "ta" và Tết "Trung thu"!”)

Nên khi ông NKAT tự hào là ḿnh "sống dựa theo tinh thần tự lực cánh sinh" và khinh miệt những ai ra vẻ hiểu biết, mà không biết là chính ḿnh mới đi tỏ vẻ hiểu biết và nhứt là không hề biết nghĩa "tự lực cánh sinh" là gốc của triết lư nhân sinh của Việt tộc, nên c̣n gọi là Nhân chủ hay Nhân hoàng. Nhưng quan niệm này phát xuất từ quan niệm Tam tài, nghĩa là ḿnh cũng như Trời Đất, làm không nghỉ (thiên hành kiện), và không bao giờ từ chối sự trợ lực của Thần minh. V́ vậy mà kinh điển hay nói tới "Thiên hựu" tức là sự trợ giúp của Trời, cũng như hay nói tới Thiên bản nhưng lại khéo Dung Ḥa với Nhân bản bằng cách đồng hóa tiếng Dân với tiếng Trời. Do đó muốn Dung Ḥa th́ Dân (chúng) phải lo lắng cư xử sao cho nhịp theo Đạo Trời Đạo Đất để có Đạo Nhân. V́ vậy Tổ tiên mới lấy câu "Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Ḥa" làm châm ngôn và làm tôn chỉ sống. Nên trong thực tế, với đời sống văn hóa nông nghiệp, th́ đối với Trời với Đất con người phải cố giữ một mối bang giao dung ḥa (không thân, không sợ) theo quan niệm "thiên địa giao hỗ vi nhân", bằng cách thực hiện sự giao hỗ đó qua hai cuộc lễ Tế Giao lớn vào mùa Xuân và Thu, như tiền nhân đă nói "Xuân tế Đế, Thu tế Thường". Do đó mới có hai cái Tết (lễ cúng định kỳ) quan trọng nhất là Tết Nguyên ĐánTết Trung Thu. Và v́ Lễ Kư nói : "Tế nhiều quá th́ phiền hà mất cả tôn kính, bỏ lâu quá th́ tỏ ra lănh đạm chểnh mảng, nên người quân tử hợp theo Đại Đạo mà tế Xuân Thu nhị kỳ". V́ vậy nên khi ông NKAT tỏ vẻ hiểu biết đi kêu gọi : Hăy băi bỏ Tết "ta" và Tết "Trung thu"! tức là chưa hiểu được nghĩa "tự lực cánh sinh" theo nhân sinh và vũ trụ quan của Tổ tiên, mà chỉ nói thuộc ḷng !

Hơn nữa, hiện nay Tàu cộng với mưu đồ thôn tính Việt Nam qua đảng bán nước CSVN đă và đang viết sửa lại lịch sử với văn hóa dân tộc, để tuyên truyền xuyên tạc Việt Nam là một lănh thổ (tỉnh) từ xưa của Tàu. V́ vậy, lúc này hơn bao giờ hết, nếu bạn là người Việt yêu nước thương ṇi th́ hăy tích cực tham gia để đấu tranh cho "mặt trận văn hóa" với Tàu cộng, bằng cách t́m hiểu cho thấu triệt ư nghĩa triết lư của phong tục của Việt tộc nhân dịp Tết Nguyên Đán ; hầu mới quư trọng cái di sản tinh thần và yêu chuộng cái tinh hoa văn hóa của người ḿnh, để mới có ư thức dân tộc tính, th́ mới biết bảo vệ và duy tŕ thuần phong mỹ tục. V́ vậy, trong chiều hướng đó, qua bài viết này tôi mạo muội nhắc lại ư nghĩa của những phong tục truyền thống vào Xuân Tiết nhân ngày lễ Tết.


Mâm Ngũ Quả


Cho đến nay, người ḿnh thường ai cũng hiểu mâm Ngũ Quả là 5 thứ trái cây để cúng tế cho ông bà và trời đất, và vào dịp lễ Tết Nguyên Đán th́ 5 thứ quả này người miền Nam thường liên tưởng tới ước vọng "cầu vừa đủ xài" cho suốt năm mới, nên khi dọn mâm quả để cúng tế th́ tư tưởng đó được thể hiện qua cách chọn lựa những trái cây có tiếng gọi tương tự như : măng cầu, dừa xiêm, đu đủ, trái xoài; hay nếu như người miền Bắc th́ "cầu đủ sung" nên chọn trái sung thay vào. Nhưng đó là lối hiểu theo cách suy diễn giản dị của dân gian, chứ không là ư nghĩa triết lư với "tận kỳ tính" theo nghĩa văn hóa dựa trên vũ trụ và nhân sinh quan của Tổ tiên, mà tôi đă cắt nghĩa trong bài "Có nên bỏ Tết Nguyên Đán hay không ?". Cho nên mâm Ngũ quả nếu chỉ hiểu theo dư luận với nghĩa "cầu đủ sung" hay "cầu vừa đủ xài" hoặc "cầu xài líp ba ga",… th́ phải nói là mê tín dị đoan, v́ hoàn toàn trái ngược với tinh thần triết lư nhân sinh của Việt tộc, là "có Thực mới vực được Đạo", là "tận kỳ tính tắc tri Thiên, tri Địa, tri Nhân cập vật giả" hay c̣n nói là "tận kỳ tính, dĩ chí ư mệnh", tức là Minh Triết, là lư giải minh nhiên thấu triệt mọi vấn đề không hề bị ứ đọng hay bế tắc, v́ Văn Hóa của Việt tộc c̣n gọi là Thần Hóa, nên tiền nhân mới nói : "cùng Thần tri Hóa". Do đó trong văn hóa của Việt tộc với triết lư nhân sinh không hề có dị đoan v́ mê tín để đi cầu Trời khẩn Phật cho "vừa đủ xài" hay "sung túc", nhưng trái lại phải "tự do lai xuất" để biết "tự tác tự cường" hay c̣n nói là "tự lực cánh sinh" nếu muốn có đủ hay muốn sung túc. Như vậy mới gọi là Nhân chủ.

V́ vậy, nguyên nghĩa của mâm Ngũ Quả (với 5 quả cây khác nhau tùy theo từng miền là "tinh hoa kết quả" của vạn vật vũ trụ với Khí Tiết c̣n gọi là Thần Tiết hay Thời Tiết, ở đây Tết Nguyên Đán là Xuân Tiết), đặt trên bàn thờ Tổ tiên tượng trưng cho Ngũ Hành là Thủy-Hỏa, Kim-Mộc, Thổ nói lên sự diễn tiến một vận hành tương giao, sinh khắc của Khí Âm Dương trong vũ trụ qua hành động biến dịch, biến hóa từ ṿng sinh tiềm ẩn bên trong (tiềm thể) đến ṿng thành là sự liên kết Ḥa hợp ăn chịu với nhau cách tương đắc để lộ ra bên ngoài qua vạn vật, như câu "Ngũ Vị tương đắc nhi các hữu hợp" (H.T.) và quy tụ nơi "hoàng cung trung thổ" chính là Con Người, do đó mà sách Hệ Từ mới nói : "An Thổ đôn hồ Nhân". V́ chữ "Ngũ" viết với bộ "nhị" thêm nét dọc nối liền và gạch gang cong xuống có nguyên nghĩa là giao hỗ của âm dương, thiên địa. Nên Ngũ Hành không phải là năm yếu tố (élément) chính cấu tạo thành vũ trụ là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ như ai cũng tưởng, mà trái lại là nền tảng của một triết lư hành động, có tên gọi là triết lư nhân sinh. Ở đây, tôi chỉ nói sơ qua mà không đi sâu vào vấn đề này, v́ đă có nhiều bài viết đề cập đến trên trang mạng An-Việt Toàn Cầu.


Đón Giao Thừa

Ba chữ "Đón Giao Thừa" đều có gốc chữ Nôm, viết với bộ "thủ" (tay), nên nguyên nghĩa của chữ "thủ" này hiểu rộng ra có nghĩa là Hành động, cũng tương tự như nghĩa của "Ngũ Hành" với mâm Ngũ Quả. V́ theo vũ trụ và nhân sinh quan của Tổ tiên Việt tộc là "Thiên địa giao nhi vạn vật thông, thượng hạ giao nhi kỳ chí đồng" (Kinh Dịch), nghĩa là "Trời đất có giao ḥa th́ vạn vật mới thông, trên dưới có thông giao th́ mới có chí hướng giống nhau". Hay c̣n nói là "thiên địa giao hỗ vi nhân""nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao", do đó dân Việt tộc ḿnh mới có tên là dân "Giao Chỉ", chứ không phải là dân có 2 ngón chân cái và trỏ giao nhau như dư luận của thiên hạ từ xưa nay.

Nên "Đón Giao Thừa" với nghĩa từ nguyên thủy là thời điểm Giao Ḥa giữa Trời Đất với Con Người và vạn vật. Do đó con người phải tự hành động với ư thức để dọn ḷng ḿnh (tâm) sao cho "trống rỗng" hầu mới có thể thông Giao với Trời Đất vũ trụ để Thừa nhận cái Nhân Tính với Thiên chức Nhân Hoàng để Thành Nhân, tức là để trở nên Con Người trọn vẹn với siêu thức tức là tràn đầy hạnh phúc với chiều kích vô biên, nên nói là viên măn.

Đó là ư nguyên nghĩa của tục Đón Giao Thừa, chứ không phải là nghĩa giao lại năm cũ rồi tiếp (thừa) nhận năm mới, th́ đó mới chỉ là nghĩa ở ṿng ngoài, suy diễn theo lư trí con người, chứ Trời Đất là "vô thủy vô chung" tức không có đầu không có cuối, th́ làm sao có cũ với mới, có đầu với đuôi, có năm với tháng,… ?!


Đốt Pháo

Với quan niệm con người là "Giao Chỉ" của Trời và Đất, tức của khí Âm khí Dương (âm dương chi giao), do đó mà Tổ tiên mới ẩn giấu ư nghĩa đó qua 4 câu ca dao :

Ở đâu mà chẳng biết ta
Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên Lôi
Xưa kia ta ở trên Trời
Đứt dây rơi xuống làm người thế gian

Nên khát vọng mà cũng là cứu cánh của con người là trở về với Nhân Tính của ḿnh, tức là trở về "Cội Nguồn" như h́nh ảnh ông Táo quy Thiên. Đó chính là ư nghĩa của "lá rụng về cội". V́ vậy phong tục Đốt Pháo không ǵ khác hơn là để nhắc nhở dân chúng cái ư nghĩa "Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên Lôi", để mà sống cho ra Người với ư thức cho trọn vẹn cái Nhân Tính mà cũng là Thiên Tính nơi ḿnh. Dĩ nhiên là tiếng pháo nổ cũng để diễn tả niềm vui ăn mừng ngày lễ Tết, đồng thời cũng để nói lên niềm hạnh phúc của con người một khi biết trí tri, để nhận thức và ư thức được ḿnh là con ông Sấm và cháu bà Thiên Lôi, tức được "giác ngộ" con người là Giao Chỉ của đức Trời đức Đất, là Nhân với "Thiên Mệnh chi vị Tính".

Cho nên, phong tục Đốt Pháo không có nghĩa là đuổi ma đuổi quỷ, hay là để cho ông Trời nghe tiếng cầu xin của dân gian để làm sấm sét ban cho mưa thuận gió ḥa cho mùa màng được tươi tốt trong năm mới, th́ toàn là dị đoan v́ mê tín ! Và v́ như tôi đă nói Văn Hóa của Việt tộc là Thần Hóa, là Minh Triết với Nhân chủ, nên tất cả những ư nghĩa nào không quy về với Nhân Tính là Cội Nguồn của con người th́ tất là dị đoan.


Mừng Tuổi hay chúc Thọ.

Với nhân sinh và vũ trụ quan "nhân tâm thiên lư hồn nhiên nhất thể" hay "thiên địa vũ trụ vạn vật nhất thể" hay c̣n nói "tam tài nhất thể" tức Con Người chính là một Tài trong Tam Tài đó là Thiên Tài, Địa Tài và Nhân Tài. V́ vậy Việt tộc mới có phong tục thờ Người nên gọi là đạo Ông Bà, v́ con người là Nhân, là Đức, là Tính của Trời Đất. Nên để biểu lộ Nhân Đức của Thiên Tính đó cách cụ thể th́ việc cúng tế chính là sự "tế giao" để sống hai nhân đức HiếuĐễ đối với Tổ tiên, là Tổ của ḍng tộc con người, nên gọi là Văn Tổ, tức Tổ tiên cũng chính là Tổ Trời. V́ Hiếu là trọng cái nguồn gốc sự sống là Trời Đất, tức cha mẹ là những người đă truyền sinh cho ḿnh, và Đễ là trọng kính sự sống nơi con người nào đă bảo toàn được sự sống lâu hơn ḿnh, hầu để học hỏi kinh nghiệm sống. Cho nên ca dao đă có những câu rất hay để chỉ dạy cho ḿnh cách sống cho Hiếu cho Đễ, như :

Thờ cha kính mẹ hết ḷng
Ấy là chữ Hiếu dạy con luân thường


Chữ Đễ nghĩa là chữ nhường
Nhường anh nhường chị lại nhường người trên

Nên phong tục Mừng Tuổi hay chúc Thọ là để "Cung Kính", tức là để Trọng ḿnhKính người. V́ theo Việt Nho là "Tu kỳ dĩ kính. Tu kỷ dĩ an nhơn. Tu kỷ dĩ an bá tánh" (LN. XIV.45), nghĩa là : "Tu thân ḿnh bằng ḷng kính tôn người. Tu thân như thế là cách an ḥa với người khác với mọi người". Do đó người quân tử phải "hành đốc kính" (LN. XV.5), nghĩa là phải hết ḷng mở mang đức kính trong ḿnh. V́ vậy mà tục lệ Mừng Tuổi ngày Tết mới chính là "thuần phong mỹ tục".


Ĺ X́

C̣n "ĺ x́" là gốc tiếng Nôm nói trại ra từ chữ "lợi thị" với nghĩa là lợi lộc, tiền của, hay giàu có với sự mua bán đổi chác… v́ người ta hay hiểu theo kiểu vật chất bề ngoài. Nhưng hai chữ "lợi thị" ở đây có chữ "thị" viết với bộ thị (âm) "kỳ" có nguyên nghĩa là Tổ, hay Thần (thổ), nên hiểu rộng là lễ tế Tổ, tế Thần. C̣n chữ "lợi" viết với bộ "đao", có nguyên nghĩa là đẹp đẽ thuận lợi, v́ đó là 1 trong 4 đức tính của quẻ Càn : nguyên, hanh, lợi, trinh. Như vậy hiểu nghĩa rộng ra là "thiên thời, địa lợi, nhân ḥa", tức là nghĩa thuận lợi và tốt đẹp bền vững cho mọi chuyện nên nói là "mỹ lợi", hay c̣n nói là "lợi giả nghĩa chi ḥa dă" có nghĩa là ḥa hợp những cái thích nghi cân xứng . Do đó phong tục "ĺ x́" với nguyên nghĩa cũng là sự cúng tế Tổ, tế Thần, tức là để Hành động sắp đặt mọi sự sao cho thích nghi cân xứng để cho tốt đẹp thuận lợi th́ sẽ được tài lộc may mắn, mà người ḿnh trao tặng cho nhau bao ĺ x́ nhân dịp đầu năm. V́ vậy mà bao ĺ x́ luôn luôn là màu đỏ tức hành Hỏa, v́ Hỏa biểu tượng ánh sáng hỏa châu soi cho "tâm thức" con người để biết đường sống Đạo, là biết sắp đặt mọi sự sao cho thích nghi cân xứng ḥa hợp th́ sẽ được thuận lợi. Nên người ta hay nói "số đỏ" là số hên, là số có "lợi" với ư nghĩa biết hoà hợp để thích nghi và tiến hoá, để thành Tài thành Nhân. V́ vậy mà giấy bạc (tiền) mới trong bao ĺ x́ là ư nghĩa cầu chúc cho ḿnh biết thích nghi để cho mọi sự tốt đẹp thuận lợi th́ đó là "lợi lộc" trong suốt năm mới. Ngoài ra với bất cứ ư nghĩa nào khác chỉ là dị đoan mê tín !


Xuất Hành

Như đă nói văn hóa Việt tộc không bao giờ có dị đoan v́ tất cả đều phải Biết (trí tri, chí tri) v́ kinh điển có câu : "tri nhân tất tri thiên tri địa", hay "bất tri thiên mệnh, vô dĩ vi quân tử", nên nếu tin tưởng vào ư nghĩa xuất hành theo hướng, theo tuổi, theo mạng là để đón thần tài, thần lộc, thần may mắn hay "thần sầu" đi nữa, th́ đều là dị đoan mê tín ! Nhưng nên hiểu Xuất Hành là phong tục nói lên ư nghĩa một khi đă Biết th́ mới có thể Định, Tĩnh, An, Lự để Hành cho "thuận thiên", cho đúng với lư Thiên lẽ Đạo. V́ vậy sách Đại Học có câu : "Tri chỉ nhi hậu hữu định. Định nhi hậu năng tĩnh. Tĩnh nhi hậu năng an. An nhi hậu năng lự. Lự nhi hậu năng đắc." có nghĩa là "khi đă Biết tới cùng lư tận tính của mọi sự vật ở nơi chí Thiện th́ mới định được chí hướng. Có định được chí hướng rồi th́ cái tâm mới tĩnh lặng, th́ tinh thần mới an. An rồi th́ mới có thể tư lự, để suy xét đến sự, lư. Nhờ suy xét thấu triệt rồi mới đạt tới Nhất lư để thông tới Lư Thái Cực, là Chân lư, nên gọi là đắc Đạo. Hay nói cách khác Xuất Hành ở đây là ư nghĩa "suất Tính" theo "ngũ Hành" tức là phải Hành noi theo Tính là Thiên Mệnh để mà sống Nhân Tính, tức là Hành động mà không có đối tượng để tránh cho ḷng khỏi chấp vào đâu cả, đặng thong thả tiến lên cơi Đạo là cái toàn thể bao la gồm cả Trời Đất Người chứ không quy hướng vào một đối vật bé nhỏ nào hết. Đó chính là triết lư nhân sinh của Việt tộc mà cố triết gia Kim-Định đă khôi phục lại và đặt cho tên mới là Triết Lư An-Vi.


Xông Đất

Xông đây là chữ Xung đọc trại, nếu Xung viết với bộ "hành" có nghĩa là xông thẳng lên, dựng thẳng lên, xông ra, sấn thẳng vào, đụng vào, chạm vào, hướng về, con đường lớn thông ra chung quanh. C̣n Xung viết với bộ "thủy" ghép với chữ "trung" là nghĩa "trống rỗng", tức với nghĩa Đạo là nghĩa hoà hợp sâu thẳm (chí trung hoà). Nên phong tục "xông đất" có nghĩa là Hành động bằng cách quy về, hướng về, xông vào, sấn vào "tận kỳ tính" để mới "dĩ chí ư mệnh", nghĩa là tác động đến cùng cực, làm tới chỗ hết mức có thể làm, để thực hiện cái tính riêng của mỗi vật, của mỗi người, hay c̣n nói là "trí tri tại cách vật". Nói cách khác, nghĩa vụ của mỗi người là phải trở nên ḿnh, mà trở nên ḿnh tức là trở nên độc nhất vô nhị mà Việt Nho gọi là "thận kỳ độc" nghĩa là chú trọng đến điều độc nhất vô nhị nơi ḿnh. V́ vậy mà cần phải "khắc kỷ phục lễ" hay "tu kỷ dĩ an nhơn" c̣n nói là "an Thổ đồn hồ Nhân" có nghĩa là phải an định được cái đất nơi ḿnh tức là cái ḷng, cái tâm của ḿnh th́ mới nuôi lớn măi được đức Nhân, th́ mới Thành Nhân. Cho nên phong tục Xông Đất là cũng để nhắc nhở cho mỗi người ư nghĩa Hành động theo chiều hướng đó ; chứ xông đất ngày đầu năm không phải là chờ ai có phước đức hay mang tên phúc lộc, tài lợi, hạnh phúc, may mắn,… tới dậm đất nhà ḿnh từ sáng sớm mồng một Tết để cho ḿnh được may mắn tốt đẹp cả năm, th́ đó đúng là dị đoan mê tín !


C̣n nhiều tục lệ khác trong ba ngày Tết như không quét nhà, quét rác ra ngoài hay không đổ rác, v́ sợ quanh năm tiền của ra khỏi nhà mất, hay không xách nước v́ động giếng, hay không sát sinh, không giận hờn, không la hét to tiếng, v.v... th́ đó là những dị đoan mà người ta tưởng tượng rồi suy diễn gán ghép không cơ sở nền tảng. Nhưng thiệt ra tất cả những kiêng kỵ mà người ta bày vẽ ra trong ba ngày Tết đặc biệt là ngày mồng một Tết Nguyên Đán th́ cũng tự nhiên thôi, v́ trong tiềm thức của dân gian với sự kính trọng Nhân Tính mà Trời phú cho con người, bắt đầu ở nơi tất cả những ǵ mới phát sinh như câu "thiên sinh ư ", từ nơi mỗi người đến toàn thể vạn vật. Do đó mà không nên quét nhà, đổ rác, xách nước, v.v... là để kính trọng mầm Khí Tiết mới sinh của vạn vật vũ trụ mà con người cũng thuộc về ; v́ vậy mà mới nói là người quân tử phải "hành đốc kính" (LN. XV.5).


Bánh chưng, bánh dày

Nói tới Tết th́ không thể thiếu cặp bánh chưng (vuông) và bánh dày (tṛn) do từ huyền thoại Tiết Liêu mà có lẽ hễ là người Việt th́ ai cũng biết, nếu không th́ xin đọc đại ư sau đây : " Tiết Liêu (hay c̣n gọi là Lang Liêu, Lang Lèo) là một nhân vật theo trong truyền thuyết là con của vua Hùng Vương thứ 6. Trong dịp thờ tổ, vua cha tỏ ư muốn các con dâng lên những món ăn độc đáo để thờ cúng tổ tiên. Tiết Liêu đă sáng tạo ra bánh chưng, bánh giày/dày, tượng trưng cho Trời, Đất. Hai thứ bánh do Tiết Liêu sáng tạo ra đă trở thành món ăn truyền thống của dân tộc Việt." (wikipédia tiếng Việt). Đó là ẩn nghĩa của Đạo Vuông Tṛn, c̣n gọi là Đạo làm Người hoặc là triết lư nhân sinh của Việt tộc như đă diễn giải với nội dung của bài này. Hay nói cách khác như triết gia Kim-Định là :

"Cuộc thi gia chánh trong huyền sử nước Việt

Đó là việc vua Hùng Vương muốn truyền ngôi cho con nào t́m ra món ăn ngon nhất. Kết cuộc không phải những người lên rừng hay xuống bể t́m vật lạ. Nhưng được cuộc là Tiết Liêu đă làm nên cặp bánh giầy bánh chưng bằng những vật liệu ngay trước mắt (Đạo bất viễn nhân).
Việc này nên được suy nghĩ kể từ các trường gia chánh (chuyên môn dạy làm bánh tây ngọt) cho đến các học giả vọng ngoại, khinh thường những di sản tiền nhân, rồi đến các nhà chính trị hay đi cóp nguyên văn chính thể nước người. Tất cả bấy nhiêu đều nên coi gương Hùng Vương trị nước phải có Đạo nằm trong mọi thể chế. Đạo biểu thị bằng Bánh Giầy (có lẽ đọc trại chữ Giời) và các thể chế là Bánh Chưng (đọc trại chữ Trương - étendue, chỉ những ǵ cụ thể). Hùng Vương thứ 18 thực đáng làm tổ nước Việt, v́ Việt là tiến lên 9 độ, lùi xuống 9 độ (Hùng Vương 18 là 2 lần 9, c̣n 9 là Bàn Cổ nhất nhật cửu biến), tức là bao cả nội thánh (bánh trời) và ngoại vương (bánh trương). Trời 3 đất 4 là 7 nấc tiến hóa con người mà ai đạt hết mới đáng làm vua, nghĩa là làm Người Nhân Chủ. Bởi cái ư nghĩa vừa sâu xa thăm thẳm, vừa thiết thực đến tận thâm tâm mỗi con người nên "Bánh trời bánh trương" được tiền nhân ta cho là món ăn quư trọng nhất, "ngon nhất", nghĩa là thâm thúy hơn, nên đă được dùng làm quà biếu trong những dịp trọng đại như lễ cưới, và nhất là dịp tết Nguyên Đán là dịp mà người ta chúc cho nhau những ǵ đẹp đẽ hơn cả. C̣n ǵ cao siêu và ư nghĩa bằng lời chúc nằm ẩn trong bánh trời bánh trương, nghĩa là chúc nhau nên người, theo nghĩa Người có Nhân chủ tính. Không thể t́m ra lời chúc nào cao đẹp hơn nữa, nhưng lâu ngày quên mất ư nghĩa và nay có nhắc tới cũng chỉ c̣n là biểu tượng suông. V́ không c̣n cảm quan sắc bén để thâm hiểu đạo lư nên "ăn mà không biết được mùi vị hương thơm". Trước kia Nho giáo đă để mất kinh nhạc, c̣n giữ có Kinh Lễ, th́ nay người Việt chúng ta cũng để mất ư nghĩa của chiếc bánh trời chỉ c̣n lại bánh chưng vuông 4 góc tứ địa, nên tứ địa không sao trở thành tứ linh. V́ thế mới xảy ra cảnh "thực bất tri kỳ vị". Tại sao? Thưa, v́ :

Tâm bất tại yên, Thị nhi bất kiến, Thính nhi bất văn, Thực nhi bất tri kỳ vị.

心 不 在 焉 , 視 而 不 見 , 聽 而 不 聞 , 食 而 不 知 其 味 . "
(trích đoạn từ tác phẩm "Tâm Tư")

Đó là nguyên nghĩa của những phong tục ngày Tết do triết lư nhân sinh là triết lư Hành động theo Nhân chủ với Thiên Tính, sao cho thích nghi cân xứng ḥa hợp để sắp đặt mọi sự trên đời này cho tốt đẹp thuận lợi, để con người có hạnh phúc th́ mới gọi là sống Đạo làm Người. V́ vậy những tục lệ ngày Tết mới gọi là "thuần phong mỹ tục", mà hễ đă là thuần phong mỹ tục th́ không bao giờ biến thành hủ tục. Cho nên nếu ḿnh là người Việt mà đi khinh chê phong tục tập quán của cha ông ḿnh là hủ tục, là lỗi thời hay đị đoan mê tín, để đi đ̣i băi bỏ v́ cho là của Tàu hay hội nhập với tết Tây cho giống Âu Mỹ, th́ tại v́ ḿnh mất gốc và u mê v́ không chịu học hỏi cho "tận kỳ tính" mà thôi !

Nên tôi hy vọng qua bài viết này người Việt ḿnh nhận thức được cái dân tộc tính qua những phong tục của ngày Tết, hầu sống ư thức với Nhân tính bằng cách "tế giao" để thông giao hoà hợp với Trời Đất trước bàn thờ Tổ tiên với gia đ́nh đoàn tụ nhân dịp Tết Nguyên Đán, cũng là lễ Sinh Nhật của con người với vạn vật. Do đó để sống triết lư này một cách "có Thực mới vực được Đạo" qua phong tục lễ Tết Nguyên Đán để hoan lạc với Trời qua việc cúng tế Tổ tiên và ăn chơi với Đất (giao lạc hồ Thiên, giao thực hồ Địa) qua cái bánh chưng, bánh dầy, ... và các tṛ chơi để mừng vui ăn Tết. (Ngày nay có lẽ v́ cách làm bánh chưng, bánh dày hơi khó khăn v́ tốn công và mất giờ, nên bánh tét đă được thay thế theo tục lệ ở miền Nam). V́ vậy tôi thiết nghĩ việc truyền bá và phổ biến ư nghĩa linh thiêng và siêu việt này của cái Tết Nguyên Đán cho con cháu hay bạn bè là bổn phận của mỗi người Việt chúng ta, để góp sức duy tŕ và bảo vệ cái di sản Văn Hóa Truyền Thống vô giá mà tổ tiên đă để lại, với lời khuyên dạy :

Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn


Viết xong, ngày 18 tháng 01 năm 2011.
(tức 15 tháng chạp năm Canh Dần)

Nguyễn Sơn Hà