KƯ SỰ TRONG TÙ
ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
Chương 8 / Ra khỏi trại tập trung
Ra khỏi trại tập trung
*****
Ánh sáng ngoài đường hầm.
Từ lúc ở trại tập trung Yên Bái, cứ vài ba ngày th́ bộ chỉ huy trại cho mượn vài tờ báo Nhân Dân để đọc, và các bạn trong lán giao tôi trách nhiệm điểm và đọc báo cho anh em trong lán nghe sau cơm chiều. Khi chuyển đến trại tập trung Nam Hà này, các bạn trong buồng giam số 1 cũng giao tôi trách nhiệm điểm và đọc báo. Hằng tuần có được ba hay bốn ngày có báo, mỗi lần có ba bốn số báo th́ anh Nguyễn Hữu Vị với anh Bửu Uy cùng đọc với tôi sau khi cửa buồng giam đóng lại. Khi điểm bài báo nên đọc, tôi đánh số thứ tự để luân phiên giữa ba anh em chúng tôi lần lượt đọc.
Hôm ấy là ngày 5 tháng 8 năm 1987, trên tờ Nhân Dân của đảng cộng sản Việt Nam có mẫu tin mà sau khi đọc xong chúng tôi phải ngưng lại v́ các bạn bàn luận rất sống động. Mẫu tin có nội dung thế này:
“Ngày 2 và 3 tháng 8 năm 1987, Tướng hồi hưu Vessey, với tư cách Đặc Sứ của Tổng Thống Hoa Kỳ sang Việt Nam, gặp Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Hai bên thỏa thuận đầu tiên về hợp tác đẩy mạnh công cuộc t́m kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam, và vấn đề trả tự do cho những người học tập cải tạo để cùng gia đ́nh được xuất ngoại sang Hoa Kỳ theo nguyện vọng”..
Đại để mẫu tin chỉ có thế, nhưng quá đủ để anh em chúng tôi bàn luận đến nửa đêm mới dừng lại để ngủ. Cho dẫu mức độ lạc quan như thế nào đi nữa, rơ ràng là h́nh ảnh những đoàn tù chính trị ra khỏi nhà tù có cơ đang thành tựu. Tôi nói “có cơ thành tựu” v́ tuần vừa qua, có một toán Công An nghe nói thuộc cơ quan A16 từ Bộ Công An đến trại này và đang công tác ở đây. Toán này đă gọi một số bạn ra ngoài trại “làm việc”, tức là hỏi mỗi người chúng tôi một số vấn đề theo nhu cầu của họ. Những năm trước đây đă có những lần Công An từ Hà Nội đến đây gọi “làm việc”, nhưng lần này đang trong thời gian gọi “làm việc” cùng lúc có bài báo nói trên nên anh em chúng tôi có ḷng tin “cơ hựu thành tựu”. Hôm qua, họ cũng gọi tôi, và nội dung “làm việc” như thế này:
“Chào anh. Anh có phải là Phạm Bá Hoa không?”
“Đúng, tôi là Phạm Bá Hoa”.
“Anh mạnh khỏe chứ?”
“Cám ơn cán bộ, tôi vẫn khỏe”.
“Tôi hỏi anh: Nếu như nhà nước cho anh về, anh có đi nước ngoài không?”
“Tôi đi nếu nhà nước cho phép, v́ tất cả các con tôi đều ở Mỹ”.
“Nếu anh đoàn tụ với các con anh ở Mỹ, anh có chống lại nhà nước Việt Nam không?”
“Khi tôi ở ngoại quốc làm sao chống lại nhà nước được cán bộ”.
“Anh có cam kết là anh không chống lại nhà nước Việt Nam không?”
“Tôi cam kết”.
“Được. Anh mang tờ giấy này vào trại viết tóm tắt lư lịch của anh, tóm tắt hoạt động của anh, và cuối cùng là anh cam kết không tham gia các tổ chức chính trị chống lại nhà nước Việt Nam. Chiều mai đưa lại tôi”.
“Cán bộ vào lấy hay tôi ra đây đưa cán bộ?”
“Sẽ có cán bộ vào trại nhận”.
Tôi nghĩ, chính trị vẫn là chính trị, mà chính trị th́ không như khoa học hay toán học, 1 với 1 là 2. Với chính trị, 1 với 1 có thể là 1, cũng có 1 thể là 1 rưởi, cũng có thể là 2. Tại Việt Nam tôi cam kết là một việc, c̣n làm việc ǵ khi tôi ở Hoa Kỳ là việc khác. Với lại họ bảo tôi cam kết không tham gia các tổ chức chính trị chớ đâu có cam kết không tham gia các tổ chức khác.
Toán Công An đó gọi khoảng 200 anh em tù chính trị chúng tôi ra làm việc, tức khoảng một nửa tù chính trị tại trại Nam Hà A.
Đến trước ngày cuối tháng 08/1987, họ gọi tôi ra hỏi:
“Anh có xác định là anh không vượt biên chứ?”
“Có”.
Chữ có mà tôi dùng ở đây, có thể hiểu theo hai nghĩa: Có xác định, cũng là có vượt biên.
Lần này họ chỉ hỏi câu duy nhất đó. Tôi không biết hắn có hỏi các bạn khác hay không. Tôi lại bàn luận với cụ Hoàng Văn Úy, chẳng lẻ chúng nó lại hỏi một câu gần như vô nghĩa như vậy. Phải chăng chúng nó h́nh dung đến lúc nào đó bỗng dưng tôi biến mất ở Sài G̣n chăng? Tôi với Cụ Úy và anh Đinh Tiến Dũng, ăn cơm chung từ năm 1985.
“Có vẻ chúng nó nghi ngờ ông điều ǵ đó. Cẩn thận nghe”.
Sau khi toán Công An đó về Hà Nội, trong anh em chúng tôi có biết bao đồn đoán nhưng không phải là hoàn toàn vô căn cứ, chẳng hạn như:
“Tụi hậu cần mới chở về kho 246 bộ quần áo mà nguồn tin nói rơ là áo chemise trắng, và quần áo này sẽ phát cho những anh được trả tự do”.
“Nói nghe như thiệt vậy mấy cha”.
“Nghe sao th́ thuật lại các anh cùng nghe để xem có những nguồn tin khác nữa không, có ǵ đâu mà nói như móc họng vậy”.
“Tôi nghe nói có nhóm quay phim của Bộ Công An xuống đến trại rồi, và họ sẽ vào trại thu h́nh anh em chúng ḿnh đó”.
“Bạn nào có được gọi làm việc kỳ này đều có hi vọng được về thôi”.
“Các anh bệnh hoạn già yếu chắc về nhiều, v́ vài hôm nay tụi y tế lập hồ sơ và tái khám hầu hết số anh đau yếu đấy”.
“Và vân vân”.
Trên đây là tóm tắt rất nhiều đồn đoán trong buồng giam số 1 chúng tôi.
Và rồi nhóm quay phim từ Hà Nội xuống thiệt. Họ xuống khu trồng rau thu h́nh một vài Đội Rau Xanh. C̣n trong trại th́ họ thu h́nh một số sinh hoạt trong buồng giam số 1 và số 2. Thu h́nh ở chỗ đọc sách bên Tổ Văn Hoá. Họ bảo chúng tôi đá banh cho họ thu h́nh nữa.
Chiều ngày 1 tháng 9 năm 1987, tên Sáng, cán bộ giáo dục:
“Anh Hoa, phái đoàn Bộ Công An mang lệnh tha đến trại rồi, nhưng các phong b́ c̣n niêm kín nên Ban Giám Thị cũng như các cán bộ chưa ai biết ǵ cả. Tối nay, anh sẳn sàng với các anh trong tổ văn hoá, khi có lệnh th́ sang hội trường cắt dán khẩu hiệu biểu ngữ và các công tác cần thiết khác”.
Đêm đó, tôi, anh Đinh Tiến Dũng, anh Đặng Hoàng Long, anh Phan Văn Đệ, và vài anh nữa, uống cà phê, hết cà phê đến uống trà, chờ lệnh. Nhưng măi đến nửa đêm, chẳng thấy gọi ǵ hết nên chúng tôi dẹp và chui vô mùng.
Sáng hôm sau, 2 tháng 9, anh Dũng và hai bạn của tổ văn nghệ, được lệnh lên nhà tên Hán trại trưởng để trang trí. Trong lúc đó, tên Dục -phụ tá giáo dục- cầm danh sách vào trại đưa tôi:
“Anh Hoa, anh đi gọi các anh có tên trong danh sách này, bảo ăn mặc tươm tất, phải nhanh tay càng sớm càng tốt sang tập trung tại hội trường để lên nhà ông trại trưởng nghe đọc lệnh tha”.
Vừa nhanh chân vừa lẹ mắt lướt nhanh trên danh sách, tôi vui sướng khi thấy tên ḿnh trên trang cuối cùng. Lần lượt tôi đi gần như chạy đến các buồng giam, đọc tên xong là lặp lại câu của tên Dục bảo chuẩn bị nhanh để sang hội trường rồi lên nhà trại trưởng. Riêng danh sách có 9 vị Tướng được ra trại th́ tên quản giáo buồng giam số 3 mang vào đọc. Tổng số là 92 người được trả tự do chớ không phải hơn 200 như đồn đoán căn cứ theo số người mà toán Công An đă gọi làm việc, cũng như số lượng bộ quần áo nghe nói tụi hậu cần mang về trại.
Tất cả rời hội trường trong trại lên nhà trại trưởng. Lưu Văn Hán cầm danh sách đọc tên cùng vài nét lư lịch của từng người. Đọc xong, tên Niệm -cán bộ giáo dục trại- gọi anh Hoàng Thọ Nhu (Đại Tá Biệt Động Quân, Tỉnh Trưởng cuối cùng của Plei Ku) thay mặt những người được trả tự do, phát biểu cảm tưởng. Thật ra anh Nhu đă được chỉ định trước chớ không phải tự nhiên mà họ gọi anh phát biểu. Rất có thể v́ anh Hoàng Thọ Nhu là bà con với tên Hoàng Thọ Đan, Giám Đốc Công An Nam Định nên được họ chỉ định thay mặt chúng tôi chăng, dù rằng trong bao năm qua tại trại này chúng tôi thấy anh Nhu chẳng hưởng ưu tiên ǵ cả. Khoảng năm 1981 hay 1982, trong đoàn quay phim của Bộ Công An đến trại Nam Hà quay cuốn phim “T́nh Và Tội”, có cô Hoàng Thọ Thanh Mai, con của Hoàng Thọ Đan thăm anh Nhu. C̣n thay mặt cho các vị Tướng được trả tự do th́ Trung Tướng Nguyễn Hữu Có được họ chỉ định phát biểu.
Xong. Chúng tôi vào trại làm thủ tục ra trại v́ toán Công An làm thủ tục đang chờ tại hội trường của trại. Tôi bị chỉ định trách nhiệm liên lạc giữa anh em chúng tôi với toán Công An áp tải chúng tôi trên chuyến xe lửa về Sài G̣n.
Ngày hôm sau, chúng tôi nhận lại đồ vật kư gởi, kể cả tiền. Tôi c̣n lại được 15.000 đồng.
Theo ư kiến của một số anh đau yếu, tôi gặp cán bộ Quí, tên này phụ trách mua vé xe lửa cho chúng tôi:
“Cán bộ có thể mua giúp anh em chúng tôi càng nhiều càng tốt số vé có giường nằm, giúp các anh già yếu bệnh hoạn, chúng tôi sẽ hoàn lại phần tiền sai biệt cho cán bộ, được không?”
“Được. Để tôi lên Hà Nội mới rơ”.
Kết quả là 2/3 số người rời trại ngày 09/09, và số anh em c̣n lại rời trại ngày 10/09 (1987). Số vé nằm dành cho chuyến đầu 15 vé, chuyến sau 5 vé. Vậy là trong chuyến rời trại ngày 9, tất cả 9 vị Tướng đều có vé nằm và 6 vé c̣n lại dành cho các anh già yếu bệnh hoạn như anh Đàm Quang yêu, anh Hồ Tiêu, Thượng Tọa Thích Thanh Long, …
Chiều hôm ấy -02/09- nhân có vợ và con trai của anh Nguyễn Viết Tân (Đại Tá Hải Quân) đang thăm anh ấy, giúp tôi gởi điện tín về Sài G̣n cho vợ tôi biết là chiều ngày 12 tháng 9 tôi sẽ về đến Sài G̣n bằng xe lửa tốc hành. Anh Tân vẫn trong t́nh trạng bại liệt. Khi anh được ra trại với chúng tôi, cũng là lúc vợ và con trai của anh đến thăm, thế là anh được gia đ́nh đón ra trại và chăm sóc trên đường về Sài G̣n.
Sau khi bàn giao Tổ Văn Hoá cho anh Nguyễn Hữu Vị (Trung Tá Phủ Đặc Uỷ Trung Ương T́nh Báo), tôi dọn sang buồng giam số 4. Tất cả anh em được ra trại đều dọn sang buồng 4 chờ ngày rời trại. Tin đồn đoán về mấy trăm bộ quần áo nói là phát cho những người ra trại, thật ra không có ǵ hết. C̣n đến mấy ngày nữa mới rời trại nên xem như rảnh, tôi thử kiểm lại đôi nét đặc biệt của một số bạn cùng bị giam trong trại Nam Hà A này:
Về tuổi tác. Cụ Nguyễn Chấn Á 84 tuổi là tuổi cao nhất, nguyên là Thiếu Tướng trong quân đội Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Cụ về Việt Nam giữ chức Cố Vấn ngành Chiến Tranh Chính Trị. Suốt thời gian trong tù, sáng nào cũng vây, mùa đông cũng như mùa hè, Cụ đều tắm nước lạnh sau bài tập thể dục. Cụ được sự kính nễ của các vị Tướng trong cùng buồng giam, và hầu hết anh em trong trại này. Cụ nói tiếng Việt không rành, nhưng vui tính và tốt bụng.
Nhỏ tuổi nhất là Nguyễn Minh Chí, vừa tṛn 30 tuổi tính đến năm 1987. Bị bắt năm 1976 khi tham gia tổ chức Phục Quốc do Công An trá h́nh tổ chức. Sau thời gian bị biệt giam ở trại Mễ (Phủ Lư) trở về, v́ cô đơn nên bất măn quậy phá anh em. Khi trại trưởng Bùi Dênh hỏi tôi có nhận anh bạn trẻ này vào Tổ Văn Hoá không v́ không Đội nào chịu nhận cả. Tôi bằng ḷng nhận, v́ tôi quan niệm ai cũng có cái hay lẫn cái dở, và tôi cố gắng sử dụng cái hay của anh bạn trẻ này. Thế là Nguyễn Minh Chí thay chỗ cho anh bạn trẻ Đinh Vượng đă ra trại hồi tháng 4 năm 1985. Nguyễn Minh Chí học không nhiều nhưng thông minh. Thật ra sự thông minh này một phần do bẩm sinh, và phần khác là do thời gian bụi đời trước năm 1975 mà có. Minh Chí tựa vào tên Vượng -cán bộ an ninh- nhờ vào vật chất do Chí vào trong trại xin cho hắn, nhất là xin anh Phạm Kim Qui nên bạn trẻ này được xem là “có thế lực” trong sự liên lạc giữa anh em trong trại với cán bộ an ninh. Những anh em nào giúp cho Chí món ǵ để cung phụng cho tên Vượng, ít nhiều cũng được tên Vượng đền bù qua những “ưu tiên” ǵ đó từ quyền hạn của hắn.
Về sức khỏe. Anh Lâm Minh Chánh (Phủ Đặc Ủy T́nh báo), ít tuổi mà bệnh hoạn nặng nhất và lâu nhất. Anh bị suyển rất nặng, gần như cấp cứu thường xuyên ở trạm xá. Anh chưa được ra trại trong đợt này. Người nhiều tuổi mà tưởng chừng tắt thở đôi ba lần là anh Hồ Tiêu (Đại Tá Nhẩy Dù). Anh tṛm trèm 70 (1987) nhưng vẫn tập tạ, sau lần thăm gặp gia đ́nh th́ sức khỏe suy kém nhanh không thể tưởng, giờ th́ suy nhược hẳn rồi. Anh cùng ra trại trong đợt này với chúng tôi. Cụ Hoàng Văn Úy bị bệnh phổi, cứ mùa đông đến Cụ cũng khốn khổ như các anh bệnh bao tử. Rất nhiều anh bị những bệnh khó trị, như bệnh trỉ, bệnh gan, bệnh bao tử, bệnh suyển, thậm chí có cả bệnh ung thư nữa. Vào mùa đông, những anh bệnh bao tử với bệnh suyển là khốn khổ nhất. Bệnh bao tử thường phải cúi gập người xuống cho giảm cơn đau, c̣n bệnh suyển th́ lúc nào cũng như người ngộp thở vậy. Hầu hết những anh bị bệnh khó trị đều ở buồng giam số 7.
Nhớ đến cái chết của cựu Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, một thời ông là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Đang lúc rửa vài cái chén sau bữa ăn chiều, ông cảm thấy mệt và vào chỗ nằm trong buồng giam số 3. Một lúc th́ ông chết. Đến cái chết của anh Trần Hữu Dụng (Đại Tá, bị cộng sản bắt khi Ban Mê Thuột thất thủ). Một buổi sáng khi điểm danh ra cửa, tên Lực trực trại nói với anh trực buồng:
“C̣n thiếu một anh. Anh vào xem lại ngay”.
Anh trực buồng vào buồng giam thấy anh Dụng c̣n nằm trong mùng, đến lay anh dậy th́ người anh lạnh ngắt. Hoảng quá:
“Báo cáo cán bộ, anh Dụng chết rồi”.
Tên Lực vào xem. Quả thật anh Dụng đă tắt thở. Hắn bảo anh trực buồng:
“Anh cho anh nào xuống trạm xá kêu anh Quưnh lên xem”.
Bác sĩ Quưnh được dẫn vào v́ đôi mắt bác sĩ Quưnh rất mờ. Anh Quưnh nói:
“Anh nào vô buồng sờ dưới đít anh Dụng xem có ướt không?”
Chỗ đít anh Dụng trên sàn xi măng ướt nhẹp, bác sĩ Quưnh kết luận:
“Báo cáo cán bộ, vậy là anh Dụng chết v́ trúng gió”.
Thế là anh em khiêng xác anh Dụng xuống trạm xá lo chôn cất trong khi anh Trần Hữu Pháp (em ruột) và anh Trần Hữu Từ (em bà con) được lệnh kiểm lại đồ đạc của anh Dụng để sau này trao lại gia đ́nh. Phải công nhận rằng, trong số hằng mấy chục anh em tù chính trị chúng tôi chết tại trại Nam Hà A này, cho đến lúc ấy, duy nhất chỉ có anh Dụng được trại cho phép chúng tôi tẩn liệm mai táng và chôn cất rất chu đáo. Lúc tẩn liệm, khiêng xác anh cho vào quan tài không lọt v́ cái quan tài nhỏ quá, phải để xác anh nghiêng một bên, Thượng Tọa Thích Thanh Long nói như đang thật sự nói với anh Dụng:
“Thôi, làm khó anh em chi vậy, ráng thu nhỏ bề ngang một chút để nằm ngửa ra cho anh em c̣n lo tiếp nữa chứ”.
Anh em, nhất là anh Tạ Đ́nh Siêu (Đại Tá Thiết Giáp) sốt sắng lắm. Anh Siêu lắc lắc măi, cuối cùng th́ thi hài anh Dụng cũng nằm ngửa được. Hương linh anh Dụng được nghe lời kinh cầu nguyện của Thượng Tọa Thích Thanh Long. Khi chôn, đám Công An trực trại cho 11 anh em chúng tôi khiêng quan tài anh đến bên kia triền núi, nơi có đào huyệt cũng do anh em chúng tôi đào. Khi chuyển quan tài, tôi cầm b́nh hương, thầy Thanh Long theo đọc kinh. Anh Siêu trách nhiệm điều hợp anh em từ lúc rời trại đến lúc chôn cất xong. Có cắm miếng ván nhỏ viết mấy ḍng chữ thay mộ bia cho anh.
Viết đến đây tôi chợt nhớ đến anh Đỗ Xuân Sinh (Đại Tá Quân Nhu) lúc ở trại tập trung trên Yên Bái. Anh bị suyển nặng lắm. Vợ anh từ bên Pháp gởi thuốc cho anh thật nhiều. Anh biết bệnh trạng của anh, nên những thuốc anh thường dùng đều ngay trên đầu nằm để khi cần là lấy cho kịp. Nhưng rồi anh chết ngay trên cái vạt giường bằng cây chổm chỉ v́ anh không lấy kịp thuốc. Đến anh Lê Minh Luân (Đại Tá Không Quân) cũng chết trên Yên Bái. Trước ngày chết, anh vẫn kêu gào ly cà phê mà lúc ấy làm sao có cà phê. Với lại anh nằm ở trạm xá thuộc Liên Trại 1 trong khi chúng tôi ở trại 2 (thuộc Liên Trại 1), nhưng đâu có cách nào t́m cho anh được ly cà phê! Lại nhớ đến anh Nguyễn Bá Th́nh tự Long, có lẽ anh là người tù chính trị cấp Đại Tá chết đầu tiên tại trạm xá của Đoàn 776 tại thị xă Yên Bái, sau khi từ trại Tam Hiệp (Biên Ḥa) chuyển ra đây. Khi ở trại Tam Hiệp, xương chân phải của anh bị thúi, có thể là anh bị ung thư xương nhưng họ có đưa đi khám nghiệm ǵ đâu mà biết. Người chết sau đó cũng tại trạm xá Đoàn 776 là anh Huỳnh Hữu Ban (Đại Tá, Pḥng 5 Bộ Tổng Tham Mưu). Các anh chết trong trại 2 và trại 3, nghe nói chôn ở đồi “Cây Khế”, thật ra chúng tôi không ai biết vị trí chính xác đồi Cây Khế ở đâu, cón những anh chết ờ bệnh xá Đoán 776 tại Yên Bái th́ tôi không rơ chôn ở đâu.
Người mà tôi xem như đặc biệt nhất là bác sĩ Trương Văn Quưnh. Ông gần như bị mù nhưng chẩn đoán bệnh đến mức bác sĩ cộng sản ở bệnh viện Phủ Lư cũng nễ ông. Bác sĩ Quưnh chẩn đoán bằng đôi tay, bằng cách hỏi bệnh nhân, và bằng sự mô tả của anh phụ tá là Trần Xuân Đức (Đại Tá, Sở Kỹ Thuật/Bộ Tổng Tham Mưu). Chính ông đă kết luận đầu tiên Tiến Sĩ Nguyễn Duy Xuân bị ung thư di căn, anh Nguyễn Lương Bằng (Phủ Đặc Ủy T́nh Báo) bị ung thư lưỡi (chết trước ông Xuân), và anh Nguyễn Phát Lộc bị ung thư máu.
Kể chuyện giải sầu. Rất nhiều anh có tài này. Anh Nguyễn Phát Lộc (Phủ Đặc Ủy T́nh Báo) có tài kể truyện chưởng, truyện phim ngoại quốc, truyện trinh thám qua sách báo. Anh rất nghiêm chỉnh khi kể, trong khi anh Nguyễn Kim Tây (Đại Tá Biệt Động Quân) là cây kể truyện chưởng mà chúng tôi gọi là “chưởng thời đại” rất ư là tiếu lâm. Khi anh Tây kể chuyện làm cho người nghe đôi khi cười đến ôm bụng, cười ra nước mắt, có anh cười đến té đ…, chẳng hạn như truyện chưởng mà có bắn súng thay v́ đánh vơ đánh kiếm, đi xe du lịch thay v́ cưỡi ngựa. “Máu tiếu lâm” của anh Tây thường giúp người nghe giải sầu tức khắc, tuy có lúc nghe “hơi tục mà thanh” cứ như nghe thơ của bà Hồ Xuân Hương vậy. Anh Lê Minh Chúc (Đại Tá) kể truyện dưới dạng vừa dịch vừa kể truyện ngoại quốc cho anh em trong buồng giam nghe, chẳng hạn như quyển “Hăy Để Ngày Ấy Lụi Tàn” của tác giả người Anh, viết về một chuyện t́nh giữa người thanh niên da trắng với người phụ nữ da đen, sinh ra đứa con “trắng nhiều hơn đen”. Chuyện xảy ra trên đất nước Nam Phi dưới thời Anh Quốc cai trị. Thời ấy “kỳ thị chủng tộc” là chính sách rất tồi tệ. Thật ra không phải cứ ai kể chuyện vui mà mọi người cười hết đâu, cần có chút “khoa ăn nói” nữa. Anh Tây kể chuyện th́ y như rằng, anh em trong buồng giam đều cười vui vẻ.
Nguồn chuyện kể giải sầu riết rồi cũng cạn, lúc ấy đến lượt tôi, nhưng chuyện mà tôi kể không phải chuyện vui mà là chuyện để suy ngẫm. Chuyện bắt đầu khi tôi lên tiếng:
“Các bạn ơi! Tôi thử kể chuyện này, nếu các bạn nghe được th́ tôi kể tiếp. Nếu không th́ tôi chấm dứt ở đó”.
“Anh kể đi. Chưa kể th́ biết đâu mà nghe được với không được”. Một bạn lên tiếng.
Tôi bắt đầu kể về những lệnh mà tôi nhận, những việc mà tôi làm, và những nhận xét của tôi từ những lệnh và những việc làm đó trong cuộc Đảo Chánh ngày 01/11/ 1963. Lúc ấy khuya lắm rồi, tôi kể chưa hết nhưng chừng như chẳng c̣n ai thức, nên tôi lặng lẽ chui vào mùng. Hai ba anh cùng lên tiếng một lúc:
“Trời ơi! Sao đến đó rồi ngưng ngang vậy anh?”
“Ô! Tôi tưởng các anh ngủ hết rồi nên tôi ngưng. Nếu chưa ngủ th́ tôi kể tiếp”.
“Chuyện hấp dẫn như vậy mà ngủ sao được. Mai là chủ nhật, kể nữa đi”.
Thế là từ đêm đó, cứ sau khi cửa buồng giam khóa “crắc” một cái là tôi bắt đầu kể chuyện. Lần lượt đến cuộc Đảo Chánh ngày 30/01/1964, cuộc Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/09/1964, cuộc Đảo Chánh ngày 19/02/1965, quân đội lănh đạo quốc gia từ ngày 19/06/1965, cuộc Khủng Hoảng miền Trung từ ngày 09/03/1966, Phước Long vào tay cộng sản ngày 07/01/1975, Ban Mê Thuột mất ngày 13/03/1975, rút bỏ các tỉnh Cao Nguyên ngày 17/03/1975, và Giờ Thứ 25 của cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ. Tôi kể liên tục trong 9 đêm th́ hết chuyện.
Khi kể lại, tôi có hai điều lợi: Thứ nhất là nhân vật trong chuyện kể có cựu Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao và cựu Đại Tá Đàm Quang Yêu. Cả hai vị này cùng trong cuộc khủng hoảng miền Trung. Kể xong chuyện đó, tôi hỏi hai vị thấy tôi có điều ǵ sai sót xin vui ḷng cho biết. Anh Yêu nói “thế là đủ rồi”, trong khi ông Cao chỉ cười cười mà không nói ǵ hết. Điều lợi thứ hai là khi tôi kể, cùng lúc kư ức tôi nhận lại. Như vậy, xem như tôi cập nhật hóa những ǵ mà kư ức tôi lưu giữ. Cũng nhờ vậy mà tôi lén lút viết lại và “gởi chui” về Sài G̣n vợ tôi cất giấu.
Về đàn hát. Anh Đào văn Ba và anh Nguyễn Văn Quí, được anh em xếp vào “bậc thầy” về guitare với những bài tân nhạc, nhưng về nhạc cổ điển có lẽ không ai hơn anh Phạm Kim Qui, kế đó là anh Đặng Hoàng Long. Hát nhạc ngoại quốc, khó anh nào đương nỗi với anh Phạm Gia Đại với anh Bửu Uy. Anh Phạm Kim Tấn cũng là “cây hát” nhạc tây nhưng giọng anh “rè quá” nên khó xếp hạng được. Hát nhạc Việt Nam, phải công nhận là giọng của anh Đinh Tiến Dũng với anh Nguyễn Dũng là hấp dẫn nhất. Nét đặc biệt của anh Nguyễn Dũng là chui vào mùng hát. Trong số các anh hát hay, phải kể đến anh Phạm Văn Ḥa (Trung Tá Không Quân) là ca sĩ số một với giọng “người Mỹ hát nhạc Việt”.
Về đá banh. Anh Phạm Kim Tấn và anh Chu Mạnh Bích (Đại Úy Không Quân) là đá có kỹ thuật nhất. Anh Vũ Quang Tỉnh mà chúng tôi thường gọi là “Quách Tỉnh” một nhân vật trong truyện chưởng Trung Hoa thời phong kiến, th́ đá theo sức mạnh. Anh Nguyễn Văn Hóa (Đại Úy Không Quân) di tản tháng 4 năm 1975, nhưng lại theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về nên bị bắt nhốt chung với chúng tôi. Anh cùng ra trại trong đợt này. Anh đứng hàng hậu vệ là số một. Anh Cao Văn Ủy (Đại Tá Biệt Động Quân) thủ môn thuộc hạng khá của đội “lăo tướng” nhưng phải tùy hứng. Anh bạn trẻ Đinh Vượng cũng là thủ môn có hạng. Khi vào sân là anh bạn trẻ này liều mạng lắm. Anh bạn trẻ khác là Nguyễn Minh Chí, khắp sân chỗ nào cũng có mặt, cứ có banh là đá c̣n trái banh muốn đi đâu th́ đi.
Về tướng số tử vi. Anh Nguyễn Phát Lộc, trước năm 1975 đă xuất bản hai quyển sách về loại này. Có lần anh nói với tôi và các bạn:
“Tôi không thể giải đáp cho lá số của chính tôi. Theo lá số, tôi không chết trong trại tù, cũng không chết ở nhà”.
Sau khi tôi ra trại khoảng 6 tháng th́ trại Nam Hà có đợt tha, và trong số đó có anh Lộc. Điều mà anh Lộc không có giải đáp cho lá số của anh, th́ ngay trong đợt tha dường như là tháng 04/1988 có giải đáp, nhưng tiếc là tự anh không xác định được. Theo thư của anh Nguyễn Hữu Vị gởi cho tôi, khi anh Lộc nhận được lệnh tha ra trại cùng lúc có cô em gái út đến thăm. V́ sức khỏe quá kém, nên trực trại cho anh em khiêng anh ra nhà thăm nuôi để gặp gia đ́nh, và rồi anh Lộc chết tại đây. Vậy là lá số của anh rất đúng, v́ anh không chết tại nhà cũng không chết tại trại, cầm giấy ra trại trong tay để rồi chết tại nhà thăm nuôi (Khi về Sài G̣n, tôi thường gởi thư chui cho anh Vị kể những chuyện của anh em chúng tôi, và những oái oăm trong xă hội xă hội chủ nghĩa).
Anh Đoàn Túc (cựu Trung Tá) cũng là một “nhà bói toán” có hạng. Anh bói cho một số anh liên quan đến chuyện nhà, ngay cả chuyện các anh ấy được về trong khoảng thời gian nào, đa số đều đúng.
Trở lại chuyện tôi ra trại. Trong những ngày chờ lên xe lửa, anh em chúng tôi chung góp được 23.000 đồng để giúp hai bạn tù cùng về:
- Anh thứ nhất được 13.000 đồng là anh Lê Văn Khương (Phó Quản Đốc Nhà Lao Côn Sơn). Trong thời gian bị giam ở trại “Cổng Trời” sát biên giới với Trung Hoa cộng sản, đă bị chúng nó hành hạ đến mức không đi được nữa nên không thể cùng đi xe lửa với chúng tôi, mà trại chờ người nhà đến đón mới cho ra trại. Anh Huỳnh Kim B́nh (Đại Úy) và vợ, nhận trách nhiệm mang tiền đến trao cho gia đ́nh anh Khương, đồng thời chị B́nh sẽ hướng dẫn gia đ́nh này ra trại Nam Hà đón anh ấy về, v́ nhà anh chị B́nh cùng ở Long Xuyên. Cũng may là chị B́nh khi đến trại thăm th́ biết tin anh B́nh được ra trại, nên chúng tôi nhờ tên Quí (Công An, phụ trách vận chuyển của trại) mua vé để anh chị được về cùng chuyến xe lửa. Về đến Sài G̣n, gia đ́nh anh Trang Văn Ngọ (Trung Tá Không Quân) gởi cho gia đ́nh anh Khương thêm 11.000 đồng nữa để đủ cho hai người ra đón anh Khương.
- Anh thứ hai là anh Huệ được 10.000 đồng. Anh Huệ lúc bị giam ở trại Tam Hiệp tự xưng là “Thiếu Tướng Nguyễn Huệ, Tư Lệnh Sự Đoàn 23B”, v́ anh bị thần kinh nên Đại Đức Thích Minh Tâm (cùng ra trại) nhận anh ấy về chùa ở Hóc Môn tạm trú, sau đó sẽ hướng dẫn về quê dường như cũng ở Long Xuyên th́ phải.
Bookmarks