
Originally Posted by
Cao Cầu
Lời giới thiệu: Nhà Ngô cai trị miền Nam trong 9 năm với năo trạng đại ngu dốt và sự cuồng tín một cách điên khùng, mê muội, đă âm mưu biến một xứ sở có truyền thống tam giáo, Phật, Nho, Lăo thành quốc gia Vatican thứ hai. Hàng vạn chiến sĩ đồng bào không theo đạo Chúa tại miền Nam,tin đồ các Giáo phái, các đảng phái quốc gia một ḷng chống giặc ngoại xâm, một ḷng quyết tâm diệt công, đồng bào lương giáo, phật tử .... đă bị sát hại hay lưu đày. Nhà Ngô quá tư tin vào sức mạnh con Chúa tức con Trời của ḿnh đă âm mưu bắt tay với giặc Hồ, tay sai đắc lực và trung thành của CS quốc tế, mong chia chát cùng giặc Hồ để làm Vua suốt đời . May thay, nhờ có Mỹ, nhờ có cuộc đảo chính 1/11/ 63 , dân miền Nam được hưởng thêm 12 năm tự do trước khi mất nước năm 1975 vào tay giặc cộng. Nếu không có cuộc đảo chính 1963 th́ miền Nam đă mất vào tay giặc cộng từ năm 1965. Miền nam đă có thể trở thành biển máu, bất kể đạo Chúa hay không Chúa đều bị cáp duồng
Dù sao, 9 năm cai trị của nhà Ngô tại miền Nam đă đi vào lịch sử. Mọi tội phạm đều đă chết nhưng lịch sử th́ vẫn c̣n đó muôn đời . Đọc lại lịch sử để làm bài học cho tương lai chứ không phải để trả thù hay căm thù ǵ nữa với người đă chết . Vậy xin mời đọc giả nào c̣n có chút t́nh với quê hương dân tộc hăy đọc loạt bài về nhà Ngô của Tuệ chương Hoàng long Hải để t́m hiểu một giai đoạn đen tối của lịch sử nước nhà . Quí vị có thể góp ư khen chê nhưng xin đừng trích ra mấy bài báo của đám cận vệ, của bọn cuồng tín theo pḥ Ngô, mấy cái báo cáo bá láp bá xàm của nhà Ngô rồi tự cho là "tài liệu lịch sử" như NDTV đă làm bấy lúc nay để có t́nh chạy tội cho Ngô Triều . Đọc mấy "tài liệu lịch sử" của NDTV cũng như đọc báo Nhân dân của VC hiện nay ở trong nước. Chán phèo và vô giá trị!
Cao Cầu, tên vô đạo, không thờ đám đầu trọc hay qua đen, nhưng ăn ở hiền lành. Tuy là vô đao nhưng thấy em hiền như ma soeur là theo em đến nhà thờ, đạo ǵ cũng theo, dấu ǵ cũng làm, Amen . Xin trân trọng giới thiệu:
Huế và Ngô gia ( tiếp theo: Bài 3)
Nguồn: www. newvietart.com
Tác giả: Tuệ Chương Hoàng long Hải
Cần nói một nét chung về anh em Ngô gia là khinh người. Sách của tướng Đôn th́ viết là “Mục hạ vô nhân”. Bản chất của họ đă vậy, đến khi có quyền cao chức trọng, người nịnh hót lui tới càng ngày càng đông, bợ đỡ, cúi ḷn hèn hạ, từ ông bộ trưởng, thứ trưởng, giáo sư, bác sĩ, dược sĩ, tướng tá cao cấp trong quân đội… cho tới người dân b́nh thường, v́ đói ăn thiếu mặc nên phải cúi ḷn, làm cho cái tính khinh người của anh em nhà Ngô ngày càng nhiều, càng lên đến nỗi không ít người không biết, phê phán, chê bai.
Ngay cả những sui gia với nhà họ Ngô cũng bị họ coi thường.
Việc đối xử giữa sui gia với nhau như gia đ́nh họ Ngô với gia đ́nh bà thừa Tùng (bên chồng bà Ngô thị Giao) và gia đ́nh ông Nguyễn Văn Ấm (bố mẹ đức cha Nguyễn Văn Thuận) th́ tôi không biết, không nghe ai dư luận ǵ.
Em đức cha Thuận là ông Thanh, ông Liêm, không thấy ai bàn tán ǵ lắm. Ông Thanh sau làm Cảnh Sát, cưới cô Đèo Ngọc Hoa là hoa khôi hội chợ Buôn Mê Thuột (năm 1956). Người ta nói ngày 2 tháng 11, sau Saigon đảo chánh (ngày 1 tháng 11-1963) th́ ông Thanh lái chiếc xe Wolfswagen màu trắng, chạy ra Đông Hà, tính theo đường số 9 mà trốn qua Lào, nhưng đường đi không an ninh nên ông phải về Huế trở lại. Ông lái xe vô nhà ông A.N.H. gởi lại hai vali, nhờ giữ giùm. Dĩ nhiên là người ta đồn về giá trị của hai cái vali nầy rất lung tung, nhưng cũng khó biết hồi kết cuộc của câu chuyện nầy như thế nào. Chẳng qua, v́ người ta nghĩ rằng tài sản gia đ́nh họ Ngô nhiều lắm nên mới đồn ra như thế. Việc nầy sẽ nói thêm ở các bài sau.
Việc cấu kết làm ăn giữa “Cậu Cẩn” và bà chị Ngô Thị Hoàng của ông gây ra nhiều dư luận, tôi cũng xin nói thêm sau nầy, nhưng sau khi cụ Diệm làm tổng thống th́ ông “trợ Đông”, một người em ông cả Lễ, được ra cầm đầu tỉnh Quảng Trị.
Ông “trợ Đông” là ông Nguyễn Văn Đông, trợ giáo, em chồng “bà cả Lễ” Ngô Thị Hoàng, cũng “được nước” khi Ngô gia nắm quyền lực. Đoán chừng như ông “trợ Đông” cùng tuổi với “cậu Cẩn”, học hành cũng làng chàng như “cậu Cẩn”. Ông Đông đậu tiểu học, làm trợ giáo, rồi khi ngọn cờ nhà Ngô phất cao th́ ông được “mời ra làm tỉnh trưởng” tỉnh Quảng Trị, một tỉnh quan trọng v́ là tỉnh “địa đầu giới tuyến”. Cậu con trai của ông, Nguyễn Văn Ngọc X., nguyên là cán bộ thông tin th́ “con nổi tiếng hơn cha”, không phải v́ tài ba ǵ!
Trước khi làm tỉnh trưởng, không rơ v́ ông Đông có làm thầu khoán như anh chị ông hay v́ nhà ông làm nghề nầy nên ông cũng quen nghề, nên khi giữ chức tỉnh trưởng, ông làm vài việc dân Quảng Trị cũng khoái ông. Ví dụ các nhà thầu cung cấp đá lót đường sá cho thị xă. Đá được đổ trên lề đường để công chánh kiểm nhận và tiện rải đá xuống đường. Vài lần ông cầm cái thước đo để đo số lượng đá cung cấp. Ông gọi ty Công Chánh cho biết số lượng đá không đủ, cần kiểm soát lại với nhà thầu nên nhà thầu và Công Chánh cũng ngán ông. (Có thể bị bể mánh nếu có ăn chia?).
Mỗi khi tỉnh có tổ chức lễ lược, ông tới chỗ hành lễ chủ tọa. Xuống xe, đi bộ vào nơi hành lễ, một ḿnh ông đi trước. Ông chánh án Nguyễn Văn Th., bằng cử nhân luật đàng hoàng không được đi ngang “ông trợ” mà phải đi sau một chút. C̣n như ông dân biểu H.D.T., bằng cấp “sơ học yếu lược”, th́ sợ ông tỉnh trưởng lắm, bao giờ cũng ké ré như gà gặp cáo vậy. Người ta nói ông tỉnh trưởng bảo rằng ông là người đại diện cho tổng thống ở tỉnh nầy. Đă là “đại diện tổng thống” th́ ai dám đi ngang hàng với ông.
Tuy ông “trợ Đông” tự xưng ông ta là “đại diện cho tổng thống” (Gọi là tổng thống th́ chế độ đó là chế độ dân chủ) nhưng tác phong, suy nghĩ của ông “trợ Đông” chẳng có chút ǵ gọi là dân chủ cả. Dinh tỉnh truởng, nơi ông ở và làm việc, thời thực dân là dinh công sứ Pháp. Dinh nằm trên đường bờ sông, ngó ra sông Thạch Hăn. Thời ông Tây mắt xanh mũi lơ hay mẹc xà-lù (merde salaud) dân Annamít c̣n ở đó, con đường bờ sông nầy, đoạn đi ngang dinh, chẳng cấm cản ǵ cả, ban ngày cũng như ban đêm. Cái bến nước ở đây, tên gọi là Bến Sứ, nước sâu và trong, dân chúng đến tắm tự nhiên. Thời chiến tranh, mấy ông tỉnh trưởng do chính quyền Bảo Đại cắt cử ra, cũng giống như thời Tây, chẳng cấm cản ǵ cả. Đời ông “trợ Đông” làm tỉnh trưởng, chế độ dân chủ có hiến pháp đàng hoàng, nhưng con đường bờ sông đi ngang trước dinh, buổi tối cấm dân chúng qua lại. Hai đầu đường có hai cái rào cản, thường gọi là garde barrière không cho dân chúng đi qua, khiến dân chúng phải đi ṿng đường phía trong, xa gấp ba, nên người ta “chửi ông trợ Đông” cũng không ít. Thời các ông tỉnh trưởng đời Quốc trưởng là thời chiến tranh, có thể v́ sợ Việt Minh tấn công, ám sát nên các ông tỉnh trưởng thời ấy có cản ngăn đường sá, c̣n dễ hiểu. Đời “trợ Đông” là đời Cộng Ḥa, Việt Cộng trốn sâu vào rừng hoang,[...] , có chi mà phải cấm đường. C̣n Bến Sứ th́ được gắn tấm bảng “Cấm tắm ở đây”! Đúng là ông “trợ Đông” ưa làm quan, “sặc mùi phong kiến”, đâu phải là tỉnh trưởng đời Công Ḥa, nên người ta có chửi ông th́ việc ấy cũng không sai!
Ông có lập một đồn điền gần Khe Sanh, trên quốc lộ 9. Ông bảo rằng sau nầy về hưu ông sẽ ở tại đồn điền ấy. Một người con nuôi của chị tôi, ở lính Bảo An, có một thời gian bị đưa lên trên đó “làm cỏ đồn điền cho ông tỉnh”. Đồn điền trồng càphê là chính, giống như đồn điền “ông Tây Lá” đă có từ hồi trước 1945. Đất ở đây trồng caphê tốt lắm. Cây caphê mới trồng, cần làm cỏ thật kỹ. Một đại đội Bảo An chuyên môn trách nhiệm làm cỏ cho càphê. Đồn điền lớn lắm, khi đại đội Bảo An làm cỏ tới cuối đồn điền th́ cỏ ở đầu đồn điền đă lên xanh.
Ấy đấy! “Công tư vẹn cả đôi bề”. Chỉ tiếc rằng ông “trợ Đông” thôi tỉnh trưởng khi “đức cha” về làm việc ở Huế, bởi một vài lư do nào đó không nghe thấy ai nói rơ ràng.
Khi ông “trợ Đông” làm tỉnh trưởng, Phật giáo, sau hiệp định Genève 1954 ḥa b́nh phục hồi, nên cũng phục hồi mạnh. Không nghe thấy ông có làm ǵ với đạo Phật không nhưng thời ấy, ông Hồ Đăng Đ. làm trưởng ty Công Chánh. Ông nầy là một Phật tử nên mỗi lần chùa Tỉnh Hội làm lễ, nhất là lễ Phật Đản th́ ông trưởng ty Công Chánh lo giúp đỡ tối đa cho chùa như cho xe ủi dọn dẹp đất đai rác rưởi khu vực bờ sông trước chùa để làm nơi hành lễ rộng răi, đẹp đẻ. Ông cho dựng lễ đài thật lớn với phương tiện của ty Công Chánh, cho đem máy đèn xuống tăng cường, giăng giây điện treo đèn sáng trưng. Vậy mà không nghe nói ông tỉnh trưởng có lệnh cấm cản ǵ ông trưởng ty cả.
Dĩ nhiên là những việc nầy đều tới tai “đức cha” cả sau khi “đức cha” về Huế.
Sau khi “Ngô triều” sụp đổ, mặc dù ông “trợ Đông” đă thôi làm tỉnh trưởng, cũng bị lôi ra ṭa với một số tội ǵ đó nên ông vô nằm ở lao xá Quảng Trị. Bấy giờ th́ “Cậu Cẩn” đă ra người thiên cổ, nên ông cựu tỉnh trưởng cũng sợ, tính mạng ông như chỉ mành treo chuông.
Năm 1967, Việt Cộng bất thần tấn công vô nhà lao Quảng Trị, tù Việt Cộng th́ theo Việt Cộng đi hết. Các tù khác cũng bỏ nhà lao ra về. Sáng hôm sau, khi quân đội tới giải tỏa th́ cái nhà lao giam gần một ngàn người bỗng một đêm mà trống vốc, chỉ c̣n mỗi một ḿnh ông trợ Đông ngồi lại chờ ở đó mà thôi! Tội nghiệp cho ông!
Trở lại chuyện anh em nhà họ Ngô th́ họ khinh người lắm. Càng khinh người bao nhiêu, càng không tin người bấy nhiêu. Không tin người bao nhiêu th́ lại đa nghi bấy nhiêu. Nh́n chung, đă khinh người th́ ít tin tưởng người khác, nghi ngờ người khác. Tính khinh người và tính đa nghi là “anh em” với nhau.
Ở Huế, người ta kể chuyện khi ông Ngô Đ́nh Nhu du học bên Tây về th́ Tây cho vô ngồi ở “Viện Bảo Tàng Khải Định”, trong Thành Nội Huế, gần cửa Hiển Nhơn. Không biết do môi giới ở đâu mà ông Ngô Đ́nh Nhu cưới bà Trần thị Lệ Xuân, Ông Nhu sinh năm 1910, bà Xuân sinh năm 1924. Ông hơn bà những 14 tuổi, tính theo tuổi Tây. Thế là “kỵ” lắm. Ông quá già, bà quá trẻ nhưng chuyện nhà quan, ai dám xía vô.
Anh em ông Ngô Đ́nh Khôi lên tầu lửa ra Hà Nội làm lễ cưới vợ cho ông Nhu. Họ cằn nhằn với nhau về đám cưới nầy. Anh em nhà Ngô cho rằng không “môn đang hộ đối.”
Không đồng ư về việc chồng già vợ trẻ th́ c̣n nghe được, c̣n nói về hai gia đ́nh không cân xứng th́ xem ra cũng hơi kỳ đấy.
Bà Trần thị Lệ Xuân học trường đầm (trường Tây, dành cho con gái), “cua xơ-gồng” (cours Second), coi như ngang lớp 10 bây giờ th́ bỏ học, nhờ là con ông Trần Văn Chương, luật sư nổi tiếng ở Hà Nội và “đẹp” nữa – Xem h́nh bà Nhu, tôi chẳng thấy đẹp chút nào mà dữ, không hiền, không phúc hậu chút nào. Phúc hậu là tiêu chuẩn cưới làm vợ của ông cha chúng ta ngày trước, nên lấy ông Nhu làm chồng th́ cũng xứng rồi, nếu kể về gia thế và bằng cấp. Ông Nhu th́ học bên Tây về, ngành Khảo Cổ (sẽ nói rơ về sau). Thế nhưng anh em họ Ngô chê bên bà Nhu gốc là “thông ngôn.” Nội tổ bà Trần thị Lệ Xuân là ông Trần Văn Thông, gốc làm thông ngôn cho Tây. Để thưởng công, thực dân Pháp tặng cho ông Bắc đẩu Bội tinh là huy chương cao nhất của Tây. H́nh như ông có một cái chức ǵ đó, trong cái gọi là “Hội Đồng Nam Kỳ” do Tây đẻ ra làm b́nh phong dân chủ cho Tây. Đầu năm 1947, tôi có một người bà con xa, “du học” ở Hà Nội, bị Tây bắt. Người bà con ấy nhờ ông Trần Văn Thông can thiệp, Tây tha ra khỏi tù ngay.
Vợ ông Trần Văn Thông là em gái ông Bùi Quang Chiêu. Ông Bùi Quang Chiêu là kỷ sư, là người từng đ̣i hỏi Pháp phải trả độc lập cho Việt Nam. Bạn đồng chí hướng với ông có luật sư Dương Văn Giáo, nhà báo Diệp Văn Kỳ, Nguyễn Phan Long, bác sĩ Trần Như Lân, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh. Ông là lănh tụ dảng Lập Hiến, là người nổi tiếng, anh em nhà Ngô so b́ sao được?
Bên ngoại bà Nhu là ông Thân Trọng Huề. Ông Thân Trọng Huề là một nhà thơ nổi tiếng đời Tự Đức. Ông từng làm thượng thư Bộ Binh sau ra làm tổng đốc Hải An. Ở Huế người ta c̣n nhắc tới câu chuyện ông Thân Trọng Huề giao chức thượng thư bộ binh cho ông Tôn Thất Thuyết, v́ ông Thuyết muốn trực tiếp điều động quân lính để đánh Tây. Một hôm kiệu ông Thân Trọng Huề từ trong Thành Nội Huế đi ra cửa Chánh Tây, gặp lúc kiệu ông Tôn Thất Thuyết đi Tân Sở về (Tân Sở ở Cùa, Quảng Trị, là căn cứ chuẩn bị để chống Tây). Kiệu ông Thuyết đi nhanh quá, ông Thân Trọng Huề chưa kịp xuống kiệu chào th́ kiệu ông Thuyết đă đi mất. Thế mà ông Huề sợ. Bấy giờ ông Thuyết làm nhiều việc ở trong triều ghê lắm, muốn giết ai th́ giết mà ông Thuyết th́ lại là người hiếu sát. Ông Trần Tiễn Thành, phụ chính đại thần đă bị giết, vua c̣n bị giết nên ông Huề sợ, xin ra Bắc làm tổng đốc Hải An, xa triều đ́nh, xa “mặt trời” cho đỡ nóng, đỡ lo. V́ vậy mà ông Huề có ḍng vợ ở ngoài Bắc, bên ngoại bà Trần thị Lệ Xuân. Vợ ông Trần Văn Chương là con gái ông Thân Trọng Huề. Quan quyền với nhau cả đấy.
Anh em nhà họ Ngô cho rằng bên gia đ́nh bà Trần thị Lệ Xuân không xứng là không xứng cái ǵ? Họ cũng quan quyền cả, và cũng có bằng cấp cả đấy, có thua ǵ nhà họ Ngô. C̣n nói như chê nội tổ bà Trần thị Lệ Xuân xuất thân là một “thầy thông ngôn” th́ ông Ngô Đ́nh Khả xuất thân là cái ǵ, không phải là “thầy thông ngôn” hay sao? hay họ chê ḍng dơi bà Nhu không “yêu nước” như họ, nổi tiếng “đày vua không Khả”. Chắc ǵ anh em nhà họ Ngô hơn được ông Bùi Quang Chiêu, một người yêu nước lỗi lạc ở trong Nam hồi đầu thế kỷ 20? Xem ra, cũng tại cái tính khinh người, mục hạ vô nhân mà thôi.
“Cậu Cẩn” cũng thuộc hạng khinh người không kém ǵ anh em ông! Tuy nhiên, người Huế rất lịch sự. Khi “cậu” c̣n lêu bêu, chẳng ra cái ǵ cả, chưa có quyền hành ǵ cả th́ người ta gọi ông một cách tôn kính là “Cậu Cẩn”. Cậu là tiếng để gọi con các quan như “Cậu ấm”, dân “cậu” đấy. Cẩn, dĩ nhiên là tên ông ta. Người ta tưởng lầm ông là con út nên có khi gọi là “cậu út trầu”
Khi ông cầm quyền th́ người ta gọi ông là “Cậu cố” (Cố Vấn). V́ ông ăn trầu bỏm bẻm nên người ta c̣n gọi là “Cậu Cố Trầu”. Khi không ưa th́ người ta gọi là “Lănh chúa miền Trung.”
Nói chung, khi mọi chuyện xấu bắt đầu xảy ra, nhưng tai họa chưa giáng xuống gia đ́nh nầy, cũng ít ai chê bai “Cậu Cẩn”, ngoại trừ một người ta tôi “quen thân”. “Quen thân” chỉ là một cách nói. Ông Lâm T., một nhân vật nổi tiếng trong giới giáo chức ở Huế, làm giám học ở trường tôi dạy. Tôi làm “phụ tá”. Phụ tá chỉ là cách gọi cho oai, cho đúng phép tắc để nhận thêm phụ cấp, chứ thực ra th́ ông làm giám học mà tuổi th́ đă cao, coi sóc một trường học với gần 3 ngàn học sinh, 50 giáo sư th́ cũng mệt cho ông. Cho nên việc sắp thời khóa biểu cho các lớp, các thầy khá phức tạp, ông giao cho tôi đảm trách. Tôi c̣n trẻ, được ông khen là “lanh lợi”, và có cảm t́nh v́ “viết văn hay”, giúp ông lo sắp thời khóa biểu. Thực tế là cái “chức sắp thời khóa biểu” biến dạng thành “phụ tá giám học”. V́ công việc nầy nên cụ Lâm T., ông già nói trên, và tôi nhiều khi phải làm việc chung với nhau, về rất trễ, nhất là khi vào đầu niên khóa. Có lần công việc xong xuôi, ông cụ và tôi đứng nghỉ mệt ở sân văn pḥng. Bấy giờ, chúng tôi bỗng nhiên mỗi giáo chức bị bắt phải đóng 200 đồng mua quà và mở tiệc mừng sinh nhựt bà “cụ cố”, bà cụ mẹ “cậu Cẩn”. Biết ông là người Huế cố cựu nên tôi ṭ ṃ hỏi ông về “cậu Cẩn”. Ông ta cười, nh́n tôi, “phán” một câu: “Xái ḅ ǵ cái thứ đó.” Gọi “cậu Cẩn” là xái ḅ là xúc phạm “cậu” ghê lắm, mặc dù “cậu” lúc ấy đă bắt đầu mang tiếng xấu nầy nọ.
Mang tiếng xấu về cái ǵ, xin “xem hồi sau sẽ rơ.”
____________________ ___________________
... C̉N TIẾP ...
Bookmarks