Xem h́nh Ban Thăng Long 60 năm về trước với :
HOÀI TRUNG - HOÀI BẮC - THÁI THANH - THÁI HẰNG
Xem h́nh Ban Thăng Long 60 năm về trước với :
HOÀI TRUNG - HOÀI BẮC - THÁI THANH - THÁI HẰNG
Ngày Tết nói chuyện hoa mai
Cứ vào cuối tháng chạp ta, trên con đường Kha Vạn Cân, từ ga xe lửa B́nh Triệu kéo thẳng lên đến Cầu Ngang, gần chợ Thủ Đức, khách qua đường đă thấy hai bên con lộ chật hẹp và rất thường xuyên ngập nước này c̣n lại lác đác những mảnh đất vườn ăn thông ra mép lộ, đă thấy cư dân vùng ngoại ô này bày đầy những chậu mai kiểng sắp ngay hàng thẳng lối, to có nhỏ có, bằng đất nung có, bằng sành sứ có, từ những chậu nhỏ cho hoa bon-sai cho đến những chậu bằng sứ h́nh tṛn hoặc lục giác đường kính gần 2 mét, giát mảnh sành xung quanh theo h́nh long, lân, quy, phụng hoặc mai, lan, cúc, trúc. Dân miệt vườn ở hai phường Hiệp B́nh của quận Thủ Đức đang chuẩn bị cho mai Tết đấy!
Cây bông mai được chăm sóc hàng ngày, có nhân viên lưng đeo b́nh xịt thỉnh thoảng tưới nước giữ vẻ tươi tốt cho cây. Đến độ một, hai ngày trước Tết, khi những nụ hoa bắt đầu tách vỏ xanh bên ngoài để hé cánh hoa màu vàng bên trong, dân nhà nghề thường gọi là mai “le lưỡi”, th́ bớt tưới v́ sợ hoa nở bung trước ngày mùng một.
Trong đám mai vàng cũng có chen lẫn một ít mai trắng (bạch mai), giá thường đắt hơn v́ hiếm.
Những chậu mai nhỏ người ta mua về chưng trong 3 ngày Tết xong, có tiếc lắm cũng chỉ đến ngày “hạ nêu”(1) là đem vứt bỏ xe rác. Nhưng những chậu mai trong chậu kiểng lớn giá lên tới hàng chục triệu đồng, th́ lại có dịch vụ “dưỡng mai”, nghĩa là quanh năm đem gởi tại nhà vườn có người chăm sóc, đến trước Tết độ năm ba ngày th́ chở về nhà chủ. Chỉ những cây cao từ thước rưỡi trở lên nhà vườn mới nhận để khỏi bơ công chăm sóc.
Hoa mai nguyên thủy chỉ có năm cánh, nhưng những lúc sau này các nghệ nhân đă t́m được cách ghép cành cho ra những hoa có 9, 10 cánh, có khi lên đến 12 cánh và nở thành chùm trông rất đẹp. Lại cũng có nơi ghép được hoa hai màu; trên cùng một cây có mai vàng lẫn mai trắng. Và thường th́ loại mai này giá đắt hơn mai đơn thuần nhiều. Cứ đến mấy ngày trước Tết, cư dân các quận trung tâm đô thành thường đổ xô về hướng Thủ Đức, trên con đường cặp theo đường sắt ở phường Hiệp B́nh Chánh để t́m mua mai.
Việc chuyên chở món hàng về nhà th́ cũng không có ǵ khó khăn mấy. Chỉ cần để chậu mai trên yên sau xe gắn máy, buộc sợi dây thun qua chậu là có thể thong dong chạy về, một hai bông hoa mới nở theo ư của nhà vườn để chào khách cũng không đến nỗi phải rụng cánh dọc đường, c̣n những chùm nụ th́ chắc chắn không hề ǵ.
Cho nên, trên ḍng xe lưu thông từ hướng B́nh Triệu về Sài G̣n trong những ngày nói trên, cây bông mai là h́nh ảnh rộn rịp nhất của cái không khí Tết. Và thỉnh thoảng người ta cũng thấy những xe tải nhỏ chở những chậu mai to tướng, có cây cao đến hơn hai thước.
Điểm đến của những món hàng đắt tiền này là đâu? Chắc chắn là những khách sạn 3, 4 sao ǵ đó, hoặc những cửa hàng lớn ở những khu phố sang trọng, mà cũng nhiều khi xe chui vào cổng những biệt thự sang trọng của những… đại gia.
Khi đi chọn mua mai, họ đến nhà vườn bằng xe hơi đắt tiền, ngă giá xong là móc túi lấy “dế”(2) ra gọi về nhà lên chở về.
Xe lam, ba bánh vào những ngày này cũng đắt hàng, không vào được những đường cấm, th́ cứ việc chở đến một công viên nào đó. Thế là đă biến thành chợ hoa trong những ngày Tết. Tại khu nhà vườn, những chậu mai lớn trong chậu th́ không bao giờ sợ “bể bờ bao” như loại mai nhỏ trồng trên đất.
Cùng họ với cây mai Tết, cũng có loại mai “tứ quư” ba tháng nở một lần nhưng bông hoa nhỏ không được đẹp, lá màu xanh sẫm hơn, chỉ để trồng ngoài sân cho có hoa nở bốn mùa, chứ không chưng trong nhà như mai Tết.
Truyền thuyết cho rằng, vào thời Trần nước ta, khi vua Trần Nhân Tôn (1279-1293) gả Công chúa Huyền Trân cho Chế Mân, vị vua Chàm này rất mực yêu quư Công chúa nên ngoài việc phong ngay cho làm Hoàng hậu với mỹ từ PARAMECVARI, c̣n cho chọn một ngọn đồi trồng toàn các loại mai làm vườn thượng uyển cho Công chúa thưởng ngoạn.
Hoa mai cũng từng có 3 loại: hoàng mai, bạch mai và hồng mai, nhưng về sau nạn phá rừng để lấy gỗ đă làm cho hoa mai màu hồng vốn rất hiếm đă bị tuyệt chủng, về sau chỉ c̣n thấy lác đác ở vùng Ninh Thuận (Phan Rang) nhưng nay th́ không c̣n thấy đâu nữa. Ngày nay với công nghệ tiên tiến và cũng để chiều theo thị hiếu của nhiều người ưa chuộng loài hoa tuy hữu sắc nhưng vô hương ấy – quư ở chỗ chỉ trổ bông vào đúng dịp Tết Nguyên Đán cho dù gặp năm nhuần thời gian kéo dài thêm một tháng, cũng không bao giờ trổ sai lệch – cây mai nhựa đă ra đời với bông hoa, màu sắc sắc sảo có thể c̣n bắt mắt hơn hoa thiên nhiên. Nhưng vào những ngày đầu năm, nh́n thấy những cánh hoa rơi rụng quanh chậu trên mặt đất, tâm hồn con người trở nên thi vị hơn, dễ gây cảm xúc cho “kiếp hoa sớm nở tối tàn”. C̣n đối với mai nhựa, để chỗ nào cũng thấy chung quanh chậu chỉ có nền gạch men láng bóng, trông có vẻ hơi… vô duyên.
Hoa mai cũng từng được vinh danh ở nước ngoài trong những dịp bang giao. Trạng Quỳnh(3), vào thời Lê Mạt ở nước ta, có lần được cử đi sứ Trung Quốc. Khi đến xứ người, trong một buổi tiếp tân, trạng thấy có bức tranh vẽ con chim se sẻ đậu trên một cành mai. Nét vẽ thần t́nh quá khiến trạng ta ngỡ là chim thật nên chạy đến vồ, làm rách bức tranh. Sứ thần các nước cười lên hô hố. Nhưng Trạng nước Nam vốn nổi tiếng ứng biến rất nhanh nhẹn, thông minh nên nói rằng: mai là loại hoa tượng trưng cho người quân tử, c̣n chim sẻ là loại tiểu nhân, sao để tiểu nhân trên người quân tử, thật không hợp lư với đạo thánh hiền nên phải xé bỏ. Đại diện nước chủ nhà đành phải chịu thua.
Trong các loại hoa chưng trong nhà ngày Tết, vạn thọ, thược dược, cúc mâm xôi chỉ được khiêm tốn nép ḿnh bên cánh cửa ra vào, nhưng cây mai luôn được trân trọng để giữa pḥng khách, chí ít cũng là một cành cắm vào b́nh để giữa bàn, chủ nhà không quên bỏ vào b́nh một vài viên aspirine để cho hoa lâu tàn.
Ngày Tết đi từ Trung vào Nam đâu đâu cũng thấy chưng mai mua từ các nơi đem về. Có nhiều nhà, kể cả các biệt thự kiểu cổ sang trọng, giữa sân có trồng cây mai từ đời cha ông để lại. Chỉ trừ miền Bắc v́ tiết trời lạnh không trồng được mai, nhưng đổi lại, có hoa đào màu hồng cũng trổ bông vào dịp Tết. Và như thể có cuộc giao lưu hoa kiểng, nên những ngày trước Tết, trên những chuyến bay Sài G̣n – Hà Nội và ngược lại, người ta thấy không ít những bó hoa tươi thắm màu vàng đổ xuống sân bay Nội Bài, và tại Tân Sơn Nhất, bà con bước ra pḥng kính có bó hoa màu hồng trên tay.
Hoa mai với vị thế độc tôn đối với những loài hoa khác trong ngày Tết, đă trở thành cây bông truyền thống của người Việt Nam những ngày đầu năm.
ĐẠI HỌC LUẬT KHOA SÀI G̉N
Đáng lẽ ra phải gọi là Phân Khoa Luật thuộc Viện Đại Học Sài G̣n , nhưng v́ lười, v́ thói quen nên dân Sài G̣n hay gọi tắt là Đại Học Luật Khoa Sai G̣n . Đây là h́nh ảnh của ngôi trường vẫn cổ kính cho đến năm 1972 khi Mỹ được gây ảnh hưởng nhiều trên Hội Đồng Khoa, với sự có mặt của vài giáo sư Việt tốt nghiệp từ Mỹ về dậy học th́ trường Luật cổ kính này bị phá đi và xây theo kiểu mới và như bây giờ là trường Đại Học Kinh Tế của VC.
![]()
Last edited by Mau_Than_68; 09-02-2013 at 11:02 AM.
Rất đồng ý với bác NMQ.
Khi minh hoạ những cảnh có tính cách lịch sử phải nên rất cẩn thận. Vẽ khác đi là một khuyết điểm lớn vì đời sau cứ căn cứ và đấy thì "uổng" không nhỏ đâu. Một ví dụ sai khác là lạt gói bánh chưng là lạt GIANG, tức làm bằng thân cây GIANG chứ không phải cây TRE.
GIANG cùng một họ với tre. Họ nhà tre gồm có TRÚC, GIANG, NỨA, TRE, VẦU. Mỗi loại lại có các chi nhánh khác nữa. Nứa với dang cỡ to bằng nhau, nhưng trái ngược ở tính bền. Nứa dòn, thân mỏng,sớ cứng và sắc bén. Giang mềm, khó gãy, thân dày, sớ mềm và dai. Bởi vậy tổ tiên ta mới dùng làm lạt gói bánh chưng là vậy. Phương ngôn có câu "LẠT MỀM BUỘC CHẶT" là vậy.
Last edited by Vân Nương; 09-02-2013 at 02:49 PM.
Bến Nhà Rồng 1866 , nơi mà hơn nủa thế kỷ sau có tên bồi tầu cho Pháp ra đi rồi trở về làm gián điệp cho Nga .
Last edited by Mau_Than_68; 09-02-2013 at 10:15 PM.
Cảng Saigon` năm 1888, hai năm sau khi Hoà Ước Patenôtre - c̣n gọi là Hoà Ước Giáp Thân 1884. Pháp hoàn tất việc chiếm cứ toàn cơi ĐÔng Dượng.
![]()
Last edited by Mau_Than_68; 09-02-2013 at 10:23 PM.
Buồn trong kỷ niệm - thơ Nhất Tuấn, giọng ngâm Hoàng Oanh .
Đại học Luật khoa Sài G̣nFaculté de Droit
Sau Hiệp Định Geneve năm 1954 chia đôi lảnh thổ. Trung tâm Hà Nội di chuyển vào Miền Nam, sát nhập với Trung Tâm Saigon, lấy tên là Phân Khoa Luật ( Faculté de Droit) trực thuộc Viện Đại Học Saigon. Ngày 30-4-1955, cùng lúc thu hồi chủ quyền đất nước, Trường Luật được khai sinh dưới cái tên Đại Học Luật Khoa Saigon, trụ sở ở số 17 đường Duy Tân. Trường sở nầy nguyên là một Trường Mẩu giáo thời Pháp thuộc chính phủ VN mới thu hồi .
Tính đến năm 1975 th́ Trường Luật Sài G̣n là trường xưa nhất trong ba trường luật của Việt Nam Cộng ḥa. Hai trường kia là Luật khoa của Viện Đại học Huế (1957) và Luật khoa thuộc Viện Đại học Cần Thơ (1966).
Các Khoa Trưởng
GS Vũ Văn Mẫu - Khoa trưởng 1955-1957, Thượng Nghị sĩ, Bộ trưởng Ngoại giao, Thủ tướng Việt Nam Cộng ḥa
GS Vũ Quốc Thúc - Khoa trưởng 1957-1963
GS Nguyễn Cao Hách - Khoa trưởng 1963-1967
GS Nguyễn Độ - Khoa trưởng 1967-1971
GS Bùi Tường Chiểu - Khoa trưởng 1971-1973
GS Vũ Quốc Thông - Khoa trưởng 1973-1975
Tổ chức
Trường Đại học Luật khoa Sài G̣n có ba ban:
1-Ban Công pháp (Droit public) gồm luật hiến pháp (Droit constitutional) , luật hành chánh (Droit administrative) và luật công pháp quốc tế (Droit international public).
2-Ban Tư pháp (Droit privé) gồm dân luật (Droit civil), h́nh luật (Droit pénal ), luật thương mại (Droit commercial)và tư pháp quốc tế (Droit international privé).
3-Ban Kinh tế (Économie Politique) gồm phân tích kinh tế (Analyse économique), lịch sử học thuyết (Histoire des Doctrines) , địa lư kinh tế phát triển (Géographie Économique Dévelopement).
Sinh viên luật c̣n phải học thêm môn cổ luật Việt Nam.
Tổng số sinh viên ghi danh học vào năm 1969 là 13.711 và đến năm 1974 là 58.000.
Chương tŕnh học
Thoạt tiên chương tŕnh cử nhân luật là ba năm nhưng đến năm 1967 th́ tăng lên thành bốn năm. Bằng cao học là thêm hai năm, chủ yếu thêm chuyên môn. Khi tŕnh luận án th́ được cấp bằng tiến sĩ luật.
Tuy sĩ số Trường Đại học Luật khoa khá đông nhưng số người hoàn tất cử nhân và tốt nghiệp cao học rất ít. Năm 1974 có 715 người tốt nghiệp.
Bắt đầu từ 1967, học tŕnh ban cử nhân là 4 năm. Hai năm đầu chưa phân ban, sinh viên học chung cùng một chương tŕnh với các môn như sau:
1-Cử nhân năm thứ nhất gồm 7 môn : Dân luật (Civil Law), Luật Hiến pháp (Constitutional Law),Kinh tế Học (Économie), Công pháp Quốc tế (International Public Law), Pháp chề sử (History of Law), Danh từ Kinh tế Anh ngử (Economical Terminology in English) và cả Danh từ Pháp lư (Justidical Termonology).
2-Năm thứ hai : H́nh luật (Penal Law), Dân luật (Civil Law), Bang giao Quốc tế (International Relations), Kinh tế học (Economie), Tài chánh (Finances), Luật Hành chánh (Administrational Law), Danh từ Kinh tế (Economical Terminology in English),và Luật Đối chiếu (Comparative Law in French).
Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi, sinh viên sẽ bắt đầu chọn ngành, với các môn học chung và chuyên biệt như Ban kinh tế sẽ học thêm các môn Thống kê và Kinh Toán Học. Sau 4 năm nếu thi đậu hết, sinh viên sẽ được cấp bằng Cử Nhân Luật ban Công pháp, Tư pháp hay Kinh tế. Sau khi tốt nghiệp Cử nhân, sinh viên có thể ghi danh tiếp tục học Ban Cao Học Luật 2 năm theo ngành của ḿnh để đủ điều kiện tŕnh luận án lấy bằng Tiến sĩ Luật.
Chế độ thi cử
Sinh viên Tốt Ngiệp Cử nhân Luật
Bắt đầu từ năm 1967, ban cử nhân năm thứ nhất học 7 môn, năm thứ hai 8 môn,năm thứ ba tùy theo ngành khoản 10 môn và năm thứ tư 13 môn. Đại học Luật khoa Saigon mổi năm có 2 kỳ thi vào tháng 6 và tháng 9 cho các sinh viên ban Cử nhân.Thí sinh phải thi viết 2 môn trong 7 môn chính, 5 môn c̣n lại thi vấn đáp. Thí sinh phải đạt điểm trung b́nh 10/20 mới được coi như trúng tuyển. Nếu có một môn bị điểm loại (4/20) th́ thí sinh coi như rớt dù điểm trung b́nh có vượt quá điểm đậu là 10/20. Về sau có ân giảm về điểm loại cho các môn vấn đáp ban cử nhân. Sinh viên có thể được bù điểm giữa các môn. Trong niên học sinh viên bị rớt thi vấn đáp kỳ I sẽ được thi lại vấn đáp kỳ II mà không phải thi viết lại.
Đôi mắt người Sơn Tây đă một lần làm ray rức tâm hồn của nhà thơ Quang Dũng thời kháng chiến. Th́ ngày sau những Đôi mắt người Trưng Vương cũng đă làm xót xa cỏi ḷng của những kẻ bỏ nước ra đi. Xin phép cụ Quang Dũng cho tui nhại lại bài thơ Đôi mắt người Sơn Tây thành …..
Đôi mắt người Trưng Vương
Từ độ cọng về trên đất Mẹ
Tôi từ giả hết để ra đi
Cách biệt bao ngày quê bất tận
Xứ người không biết đến bao giờ
Vừng trán em mang trời quê hương
Mắt em d́u dịu buồn xa xăm
Tôi nhớ xứ ḿnh mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương
Từ lúc Xuân về loan bóng cọng
Điêu tàn thôi lại nỗi điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ ướt mi ?
Đôi mắt người Trưng Vương
U uẩn chiều luân lạc
Hồn viễn xứ khôn nguôi
Cho nhẹ niềm thương nhớ
Hăy mơ cùng ta nhé
Ngày mai trên quê hương
Và em khô ráo lệ
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy Sài Thành sẽ nở hoa
Sạch hết sắc màu loài quỷ đỏ
Em có bao giờ em nhớ ta ??
Nhại thơ Quang Dũng
Ha Ha Ha
Nhại hay lắm , BS Pleiku
Người Trưng Vương của anh chắc sẽ cảm động đến chảy nước mắt , và người Trưng Vương chưa quen biết này cũng không kém xúc động
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy Sài Thành sẽ nở hoa
Sạch hết sắc màu loài quỷ đỏ
Em có bao giờ em nhớ ta ??
Hẹn nhau ngày trở về , các bạn nhé
tigon
There are currently 399 users browsing this thread. (0 members and 399 guests)
Bookmarks