Bên Thắng Cuộc
Huy Đức
Cuốn I : Giải Phóng
PHẦN I : MIỀN NAM
Chương VII : “Giải Phóng”
P2
Không phải mọi người dân đi kinh tế mới đều bị ép buộc. Theo ông Nguyễn Thành Thơ: “Anh Phạm Văn Xô phụ trách vấn đề kinh tế mới, anh Kiệt giao cho tôi phục vụ anh Hai Xô. Nhiệm vụ của tôi là làm việc với từng địa phương để nắm các đối tượng phải đi kinh tế mới. Tôi thấy nhiều người dân ở trong những căn nhà chật chội, cạnh ao tù, nghèo đói. Chúng tôi vận động th́ họ vui vẻ đi”. Ngay cả ông Tư Kết, đang là thư kư riêng của một nhân vật quyền bính như ông Mai Chí Thọ, cũng tin tưởng vào chính sách này nên đă cùng với anh trai khuyên mẹ, một “bà má phong trào”, bán căn nhà của bà ở Bùi Viện, Quận 1 để đi kinh tế mới. Các quận đoàn lúc ấy đă cử đoàn viên thanh niên, tiên phong phát hoang, mở đường, làm nhà, lập các làng mới trước khi đưa bà con lên.
Theo ông Nguyễn Thành Thơ, nhà nước cấp đất đai, nhà cửa, gạo và tiền để sống ba tháng đầu. Nhưng thực tế không như mơ tưởng, nhất là với những người dân trước đó quen sống ở thành phố có điện, có nước, chỉ biết ngồi bàn giấy hay buôn bán, nay bỗng nhiên phải cuốc đất, trồng khoai ở nơi thâm sơn. Ông Nguyễn Thành Thơ thừa nhận, ăn hết tiền, hết gạo do Nhà nước cấp, nhiều người dân lục tục bỏ về. Các thành phố lại phải gánh chịu thêm những áp lực mới, nhất là từ những người dân bỏ kinh tế mới về khi nhà cửa không c̣n, do đă bán đi trước đó hoặc do bị coi là nhà “vắng chủ” đă bị “Cách mạng 30-4” nhảy vào “chốt” mất.
Không phải khu kinh tế mới nào cũng cho dân quay trở về thành phố một cách dễ dàng. Mỗi khi người dân trong vùng kinh tế mới Krongpak, Daklak, muốn về thăm quê đều phải cắt rừng đi từ nửa đêm. Mỗi gia đ́nh chỉ đi mỗi lần một hai người để tránh bị chính quyền để ư. Có rất ít người nghĩ tới việc bám trụ lại, nhưng những người vợ lính vẫn lo sợ, nếu trốn, chồng ḿnh sẽ không sớm được về. Gần một năm sau, khi t́nh h́nh có vẻ yên yên, mẹ của Thái Cẩm Hoàng mới lén gửi Hoàng về Hội An đi học. Nhưng ngay trong năm kế tiếp, khi về thăm lại Hội An lần đầu tiên, mẹ Hoàng đưa hai đứa em về và mang Hoàng lên để chính quyền trên khu kinh tế mới khỏi nghi ngờ. Ba tháng sau, bà mới dám gửi Hoàng về lại.
Tháng 4-1979, ông Thái Tú B́nh được tha. Ông viết thư nhắn vợ bỏ khu kinh tế mới về, dự định sẽ đưa cả nhà vượt biên theo Phương án II. Bức thư ông B́nh gửi vợ ở khu kinh tế mới mà cứ như đang ở trong chiến khu: “Con ở trên đó ráng xây dựng kinh tế mới, để chồng con sớm được về. Trong xóm có ông Giới đă được về rồi con ạ”. Mẹ Hoàng nhận thơ, rơi nước mắt v́ nhận ra nét chữ chồng ḿnh. Giới cũng là tên ông Thái Tú B́nh mà chỉ người trong nhà mới biết. Bốn tháng sau mẹ Hoàng mới bế được cậu em út về gặp cha sau khi t́m cách gửi một đứa con, một đứa cháu về trước. Khi ấy, Phương án II đă bị cắt.
Một lượng lớn người dân thuộc diện “hồi hương” hoặc đi kinh tế mới sau đó đă quay trở về Thành phố. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1975-1980, vẫn c̣n hơn 700.000 người dân đă từng sống ở Sài G̣n trước ngày 30-4-1975 không có cơ hội quay lại Sài G̣n sau khi bị buộc “hồi hương” hoặc bị đưa đi kinh tế mới334. Từ 1976- 1995, có gần 4,5 triệu người từ các địa phương trên cả nước được đưa đi xây dựng vùng kinh tế mới335.
Đốt sách
Năm 1953, khi từ Việt Bắc trở về, ông Vơ Văn Kiệt được phân công trở lại Bạc Liêu làm phó bí thư Tỉnh ủy, bí thư là ông Ung Văn Khiêm. Cũng trong những ngày đó, ông Kiệt đă cùng với các đồng chí của ḿnh xây dựng một “xă hội lư tưởng” trong “vùng giải phóng”: Cách mạng cấp hàng trăm ngh́n héc-ta đất cho nông dân, xoá bỏ chế độ tô tức của địa chủ, phát triển các mặt chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục. Ông Kiệt nhớ lại: “An ninh tuyệt vời, nhà không phải khóa, vườn không phải rào; vệ sinh từ nhà ở đến xóm ấp đều sạch sẽ; dân chúng hát những bài ca cách mạng, xem văn công cách mạng”.
Ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận, vào năm 1975, ông cũng mong muốn xây dựng ở Sài G̣n “một xă hội lành mạnh” như ông đă từng làm ở Bạc Liêu. Như nhiều địa phương lúc bấy giờ, một trong những công việc đầu tiên mà chính quyền quân quản Sài G̣n ra tay là “chiến dịch quét sạch những tàn dư văn hoá phản động và đồi truỵ”. Thành đoàn Thanh niên Cộng sản đă đứng ra thực hiện chiến dịch này.
Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài G̣n, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễu hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay…”336.
Người dân đă đổ xô ra hai bên đường xem rất đông. “Bản hiệu triệu” mà “đoàn diễu hành” đă dùng loa phóng thanh phát oang oang, có đoạn: “Mỹ đă cút, ngụy đă nhào, Miền Nam đă hoàn toàn giải phóng… Tuy vậy, c̣n rất nhiều khó khăn phải khắc phục. Dù đế quốc Mỹ đă nhục nhă rút lui, bọn Ngụy quyền và tay sai đă tan ră, nhưng sau hơn hai mươi năm cai trị, chúng đă để lại một xă hội băng hoại, sa đoạ, đầy rẫy người ăn xin, cao bồi, gái điếm, nghiện ngập; một nền kinh tế ăn bám, thiếu sản xuất; một nền văn hoá nô dịch, mất gốc, đồi truỵ, phản động. Cùng với sự xâm lăng bằng súng đạn, xâm lăng kinh tế, chúng nó đă cho xâm nhập hàng loạt sách báo, phim ảnh dâm ô, cổ động chủ nghĩa khoái lạc vật chất, xô đẩy thanh niên vào hố sâu tội lỗi. Bọn tay sai bán nước, trí thức vong bản đă đầu độc quần chúng, thanh niên, học sinh sinh viên bằng những tư tưởng phản động, ru ngủ, bưng bít lịch sử, chống lại Cách mạng. Đứng trước những tàn dư do Mỹ Thiệu để lại, đứng trước yêu cầu của Cách mạng nhằm tạo dựng một nền sống mới, một con người mới từ suy nghĩ tới hành động, nhiệm vụ của đồng bào và thanh niên ta hiện nay là tẩy xoá tận gốc rễ nền văn hoá nô dịch mất gốc, đồi trụy, phản động để thay thế vào đó một nền văn hoá dân tộc, cách mạng và lành mạnh… ”337.
Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, “đồng bào và các tiệm sách đă đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lư cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài G̣n 3 đă tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”338.
Ông Vơ Văn Kiệt nh́n nhận, ngay từ ngày 28-5-1975, Quân quản đă cảnh báo thanh niên, sinh viên học sinh: “Chúng ta không bao giờ chủ trương đốt sách”, và nói rơ “Chiến dịch chỉ thu hồi các sách báo mang nội dung đồi trụy, đầu độc tinh thần thanh thiếu niên, bóp méo xuyên tạc cuộc chiến dành độc lập tự do của dân tộc”. Tuy nhiên, trong một không khí hết sức cách mạng được lănh đạo bởi người mới từ trong rừng ra, sự “nhầm lẫn”, sự “quá tay” là không tránh khỏi. Các đội “thanh niên xung kích” nhiều khi đă không cần phân biệt những sách y học có vẽ cơ thể người với những tranh ảnh khỏa thân khiêu dâm, không phân biệt sách triết học với sách chống cộng. Nhiều trí thức đă t́m gặp ông Kiệt để phản ánh t́nh h́nh, nhưng, như ông Kiệt nh́n nhận: “Cả tôi và chính quyền đă phải mất khá lâu mới nhận ra những sai lầm đó”339.
Điều khó khăn theo ông Dương Đ́nh Thảo, giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, là làm sao để xác định như thế nào là một văn hoá phẩm xấu. Một cơ quan tuyển chọn đánh giá văn hóa phẩm sau đó đă được ông Vơ Văn Kiệt cho thành lập. Tuy nhiên, trước khi có những đánh giá cẩn trọng, các nhà báo cách mạng đă thỏa sức đưa ra các tiêu chí của ḿnh.
Tư Cua, một cây viết “cà rỡn” trên mục Sài G̣n Đó Đây của báo Sài G̣n Giải Phóng đă mượn chuyên mục của ḿnh để “tuyên ngôn” nhiều giá trị văn hóa đậm màu quân quản: “Một đồng bào và cũng là độc giả của báo Sài G̣n Giải Phóng đến toà soạn than thở: Trên một chuyến xe buưt Sài G̣n – Lăng Cha Cả, ngày 29-5, chiếc xe mang số EG 6198, đồng bào rất bực ḿnh v́ phải nghe chủ xe mở băng nhạc gồm những bản nhạc ră rời, rên rỉ, dă dượi như người mất hồn: “Khi biết em mang kiếp cầm ca / Đêm đêm pḥng trà / Mang tiếng hát cho mọi người”. Độc giả này than phiền rằng giữa lúc mọi người đang phấn khởi xây dựng một xă hội mới mà ông chủ xe buưt lại cho đồng bào nghe những thứ mà hồi Mỹ-Ngụy chúng nó dùng để ru ngủ tuổi trẻ, như thế có phải là trật đường rầy không?… Thời buổi này làm chi c̣n có cái “kiếp cầm ca”, c̣n đâu có “đêm đêm pḥng trà”, làm chi có chuyện “chỉ c̣n anh thôi, chỉ c̣n em thôi”… Bây giờ là lúc ta có tất cả, c̣n tất cả, chớ đâu có cái lạc lơng bơ vơ, sờ soạng “chỉ c̣n anh, chỉ c̣n em” như thế”340.
Tư Cua c̣n định nghĩa về “sách xấu”: “Nghe nói, trong đám sách ngổn ngang đó, có những tác giả nay đă phủ nhận quê hương, xa ĺa dân tộc, chuồn ra ngoại quốc, làm nô lệ đi xin cơm, xin áo ở xứ người! Họ biết không nhỉ! Nghe nói, trong số đám sách ngổn ngang đó, có những cuốn sách đă ru ngủ họ trong suốt hai mươi mốt năm dài chiến tranh và mất nước, ngược lại đă đánh thức những “con heo” trong ḷng họ dậy và đă biến cả Sài G̣n thành một “ổ điếm khổng lồ”341.
Ngà y 30-10-1975, trên báo Sài G̣n Giải Phóng, chính quyền công bố một danh sách năm mươi sáu tác giả có tác phẩm bị liệt vào hàng “phản động, dâm ô, đầu đôc̣ ”, bi ̣cấ m lưu hà nh, trong đó có Hoà ng Ngoc̣Liên, Hà Huyề n Chi, Phan Nghi,̣ Vơ Hữ u Haṇ h, Nguyên Vu,̃ Lê Xuyên, Nhă Ca, Văn Quang, Chu Tử , Doăn Quố c Sı,̃ Thanh Tâm Tuyề n, Mai Thả o, Dương Nghiễm Mậu.… Nhưng, ngay khi những cuốn sách đầu tiên bắt đầu được đốt ngoài đường bởi Thành đoàn, cũng như nhiều chủ nhà sách khác, chủ nhà xuất bản Cảo Thơm, ông bà Hồ Hải Trần Thế Nam342, đă họp với cộng sự của ông là gia đ́nh ông bà Nguyễn Đức Phong, bàn việc xử lư kho sách lưu trữ của Cảo Thơm.
Trước năm 1954, ông Hồ Hải đă từng có một tiệm sách ở Bờ Hồ. Khi rời Hà Nội di cư vào Sài G̣n, ông cho xuất bản Vang Bóng Một Thời, tập sách được coi là đẹp nhất thời bấy giờ. Chính quyền Sài G̣n thời Ngô Đ́nh Diệm lúc đầu cấm v́ tác giả của nó, nhà văn Nguyễn Tuân, đang sống ở Hà Nội, nhưng bộ máy kiểm duyệt sau đó đă chấp nhận. Cuối thập niên 1960, ông Trần Thế Nam cùng với ông Nguyễn Đức Phong thành lập nhà xuất bản Cảo Thơm. Do ông Phong đang là công chức nên ông Trần Thế Nam đứng tên.
Ngay sau khi quân Giải phóng vào Sài G̣n, cũng như các cơ sở in ấn khác, nhà in số 326/20 Vơ Di Nguy343 của Cảo Thơm bị chính quyền Quân quản quản lư. Số sách vở để bên nhà 326/18 bắt đầu được phân ra: Những tập sách khảo cứu của Nguyễn Hiến Lê, sách Lịch sử Triết học Đông phương của Giản Chi, thơ Nguyễn Nhược Pháp, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân… th́ được chia nhỏ, giao cho người già, trẻ em mang đi giấu hoặc gửi ở nhà người quen344. Những sách “thị trường” khác th́ Cảo Thơm huy động toàn bộ nhân lực trong hai gia đ́nh, xé ra rồi âm thầm bán cho các bà đồng nát345.
Cạo râu
Từ “văn hóa phẩm”, Cách mạng muốn thay đổi đến tận gốc rễ cuộc sống của người dân. Tháng 10-1975, đợt phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo lai căng” bắt đầu được triển khai. Ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở nhiều cuộc thảo luận về “tư cách tác phong của người thanh niên” và Quận Đoàn đă đi đến quyết định: “Hớt tóc ngắn, sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo hở ngực, không ăn mặc lố lăng, sặc sỡ… Quận đoàn đă liên hệ với một số tiệm hớt tóc và nhà may để giới thiệu anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ và mở ba địa điểm hớt tóc miễn phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận đoàn”346.
Khi tường thuật một “phiên ṭa quân sự”, trước khi nói rơ tội trạng của các bị cáo, báo chí đă dành nhiều ḍng để bày tỏ thái độ của Chính quyền Cách mạng về lối sống: “Lúc ấy là 13 giờ15 ngày 23-12-1975. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía vành móng ngựa khi Thượng tá Chánh thẩm truyền đưa hai can phạm vào. Cả hai đều để tóc dài phủ gáy, đều rất trẻ nhưng vẻ mặt hiện rơ nét ăn chơi, trác táng.
Tên mặc áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần, không cài nút cổ, là Đặng Vũ Trường, sinh viên năm thứ nhất. Tên mặc áo đen nâu phủ ngoài một chiếc áo sơ mi vàng sậm là Nguyễn Đắc Hy, quê quán ở An Cựu Đông, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Cả hai đều bị bắt quả tang vào lúc 17 giờ 30 ngày 21-12-1975, ngay sau khi chúng nổ sáu phát súng vào người anh Nghiêm Mạnh Chu để đoạt chiếc Honda-50 kiểu nữ”347.
Chuyện “hớt tóc ngắn, sửa quần ống loe” không chỉ do những phong trào tự phát của “Cách mạng 30-4”. Ngay từ ngày 3-5-1975, Ban Bí thư đă có Điện số 610: “Gửi: Trung ương Cục, anh Sáu, anh Bảy – Bộ Chính trị trao đổi ư kiến thấy rằng trong điều kiện ta thắng to và nhanh, gọn, thế ta mạnh, cho nên càng sớm ổn định mọi mặt càng tốt. Đối với quần chúng cơ bản phải giải thích chính sách, ổn định tư tưởng, làm cho họ tích cực hồ hởi tham gia bảo đảm trận tự an ninh… Đối với báo chí, nên có chủ trương rộng răi, có cách lănh đạo thích hợp, như vậy có lợi cho ta trên mặt trận dư luận rộng răi. Đối với cách ăn mặc của dân, không nên dùng mệnh lệnh cấm đoán, làm phiền phức cho dân mà nên dùng giải thích thuyết phục, khuyên bảo để tránh những kiểu ăn mặc càn quấy, không để dân lầm lẫn rằng ta chống việc ăn mặc đẹp. (Lê Văn) Lương”.
Có những người dân Sài G̣n, khi thấy “quân Giải phóng” tràn về đă nhuộn đen quần áo của các thành viên trong gia đ́nh. Trong những show diễn hiếm hoi sau ngày 30-4-1975, nhiều nghệ sỹ Sài G̣n lên sân khấu mà không dám trang điểm. Nhiều người nghĩ một cách chân thành, Cách mạng về là không c̣n son phấn và giày cao gót. Nhưng những thứ quần áo mà công điện của Ban Bí thư gọi là “lai căng” đó chỉ một thời gian ngắn sau lại trở thành sự thèm khát của những thanh niên “lớn lên dưới mái trường xă hội chủ nghĩa”.
Khi chiến tranh chưa kết thúc, ít có thanh niên miền Bắc nào có hơn hai bộ áo quần, chủ yếu bằng vải sợi xanh; ít có cô gái nào có được cái quần lụa và chiếc áo “Hong Kong” bằng vải “phin”. Sau ngày 30-4-1975, khi những cán bộ miền Nam tập kết được lần lượt về thăm quê, một số bộ đội cũng bắt đầu được xuất ngũ hoặc về phép thăm nhà. Trong cuộc họp ngày 16-6-1975, Ban Bí thư đă cho “một số ư kiến” bổ sung Chỉ thị 181 của thủ tướng, theo đó: “Việc kiểm soát sự ra vào vùng mới giải phóng cần được tăng cường chặt chẽ nhằm thỏa măn yêu cầu của cán bộ và nhân dân đi lại thăm viếng gia đ́nh ở miền Nam, nhưng đồng thời để pḥng bọn xấu lợi dụng cơ hội để buôn lậu và phá rối trị an. Việc mang theo hàng hóa từ miền Nam ra miền Bắc phải được kiểm soát chặt chẽ, ngăn cấm bọn buôn lậu đầu cơ; nhưng mặt khác, đối với cán bộ và nhân dân cần có những quy định rơ ràng cho phép họ được mua sắm và mang theo một số đồ dùng riêng cho bản thân họ, tránh t́nh trạng bắt giữ lung tung, gây căng thẳng không cần thiết”. Tuy nhiên, miền Bắc lúc đó đă phải rất vất vả để chống lại những biểu hiện “văn hóa lai căng” không chỉ lây lan từ miền Nam348.
Ngay tại Sài G̣n, những người vừa được “giải phóng” đă biết dùng những biểu tượng của chế độ làm thơ ta thán về sự bất b́nh thường của Chế độ: “Các-mác (Karl Marx) mà đến Việt Nam / Râu dài róc rậm công an bắt liền / Các-mác cầu cứu Ăng-ghen (Angel) / Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu / Truyền cho bốn biển năm châu / (Đến Việt Nam th́ nhớ) Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê nin (Lenin)349” . Lúc đầu ông Vơ Văn Kiệt cũng không hiểu tại sao người dân Sài G̣n lại không ủng hộ Cách mạng bảo vệ “thuần phong mỹ tục”. Tuy nhiên, vốn là một nhà lănh
đạo kháng chiến khá nhạy cảm trước các phản ứng của dân, ông Kiệt yêu cầu tổng biên tập Tuổi Trẻ, khi ấy là ông Vơ Như Lanh, tổ chức làm sao để ông nghe được thanh niên nói thật.
Báo Tuổi Trẻ liền cho mời thanh niên thuộc các thành phần khác nhau, những người đă bị cưỡng bức cắt tóc, cắt quần, đến pḥng họp của báo. Trước đó, ông Vơ Văn Kiệt và Thư kư Nguyễn Văn Huấn đă đến sớm, ngồi “buông rèm” phía sau lắng nghe.
Những bức xúc, dồn nén đă được các thanh niên Sài G̣n nói ra. Họ không biết một ông “Việt Cộng gộc” cũng đang “tâm trạng” lắm khi nghe họ nói. Theo ông Vơ Như Lanh, khi những thanh niên này về hết, kéo rèm ra, thấy ông Vơ Văn Kiệt ngồi lặng, mặt rất đăm chiêu. Khi ấy, chưa phải là ông Kiệt đă đồng ư hoàn toàn với những “đ̣i hỏi” của thanh niên, nhưng ông nhận ra ngay là các giá trị văn hóa không thể được ứng xử bằng những đám đông nồng nhiệt.
Không chỉ có trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, trên nhiều mặt của đời sống, người dân miền Nam chỉ mong có được những điều kiện sống mà họ đă có trước khi được những người anh em “giải phóng”. Ngay từ cuối thập niên 1960, trong khi ở miền Bắc xe đạp cũng rất hiếm người có mà đi, ở miền Nam người dân đă có thể sở hữu ô tô, c̣n xe máy hai bánh th́ tới đầu thập niên 1970 đă trở thành phương tiện giao thông cá nhân phổ biến350.
Trước khi “được giải phóng”, xăng dầu phục vụ cho các loại xe có động cơ lúc nào cũng sẵn sàng. Nhưng, để thi hành Nghị định 18 của Chính phủ, ngày 12-9-1975, Ủy ban Quân quản Sài G̣n-Gia Định đă ra thông cáo về việc “cấm tồn trữ và bán xăng dầu trên thị trường tự do”. Cùng ngày, Tổng cục Vật tư ra thông báo yêu cầu đến hết ngày 18-9-1975, những ai đang tồn trữ xăng dầu đều phải khai báo và tự bảo quản cho đến ngày 19-9-1975, ngày nhà nước trưng mua toàn bộ xăng dầu. Sau ngày đó, “tư nhân mua bán, đổi chác hoặc tồn trữ xăng dầu bị coi là phạm pháp”351.
Bắt đầu ngày 29-12-1975, xăng dầu bắt đầu được cung cấp theo chế độ tem phiếu. Người dân phải “mang theo tờ khai gia đ́nh, thẻ chủ quyền, thẻ căn cước, giấ y giớ i thiêụ của cơ quan hiêṇ đang công tá c, mang theo tiề n lệ phı́ mỗi phiế u 0,04 đồng” để đăng kư lấy phiếu cung cấp xăng”.
Chính sách tập trung quản lư các nguồn nhiên liệu và độc quyền xuất nhập khẩu vào tay nhà nước đă làm cho t́nh trạng khan hiếm xăng dầu trở nên nghiêm trọng. Từ năm 1976, một phần xe cộ bắt đầu bị xếp xó v́ không có nhiên liệu hoặc không có phụ tùng thay thế. Ban liên lạc công thương đă phải “hướng dẫn một số nhà tư sả n công nghiêp̣ á p duṇ g nhiề u sá ng kiế n có giá tri ̣trong sả n xuấ t, phuc̣ vụ đờ i số ng nhân dân”. Sá ng kiến sá ng chú ư nhấ t là viêc̣ “chế taọ thà nh công” môṭ loaị chấ t lợp vớ i giá thà nh hạ được đăṭ tên là ca-rô-đa (viế t tắ t tên nhữ ng nguyên liêụ , vâṭ liêụ cấ u taọ ra nó là cao su, rơm, đấ t) của môṭ số nhà tư sả n thuôc̣ ngà nh chế biế n cao su và nhựa dẻ o. Hợp chấ t nà y có đăc̣ tıń h mề m, không tắ t lử a, không hút nó ng, rấ t tiêṇ duṇ g trong viêc̣ lợp nhà , là m măṭ bàn, măṭ giườ ng352.
Đích thân Bí thư Thành ủy Vơ Văn Kiệt cũng phải lăn lộn ở những cơ sở chế biến than quả bàng353. Các xưở ng đúc gang th́ t́m ṭi chế tạo những ḷ nấ u than quả bà ng bằ ng đấ t có vỏ bằ ng gang. C̣n các nhà tư sả n thuôc̣ ngà nh nông lâm cơ th́ đă “cả i tiế n thà nh công” xe ô tô chaỵ bằ ng than là củi: “Bộ phâṇ ḷ hơi của xe ô tô chaỵ than củi có thể sử duṇ g cho cá c loaị má y bơm nướ c, má y tà u, má y điêṇ : Lâm trườ ng La Ngà , hăng kem Pé c-lông đang sử duṇ g loaị xe cả i tiế n này”354.
Cùng với chính sách cải tạo trong lĩnh vực kinh doanh vận tải, sự khan hiếm nhiên liệu cũng làm thay đổi địa vị con người. H́nh ảnh hành khách được các lơ xe đón tận nơi, nâng từng túi hành lư, đỡ lên những chiếc xe máy lạnh của các hăng xe đ̣ tư nhân Liên Hiệp, Hiệp Thành, Đông Á, Đại Nam, Phi Long, Tiến Lực từng “chạy suốt” ra Bắc, chỉ mấy tháng sau ngày 30-4-1975 đă nhanh chóng biến mất. Mỗi khi có việc đi xa, người dân phải xếp hàng từ nửa đêm ở bến xe, nhưng sáng ra cũng không chắc có thể mua được vé. Lên xe rồi c̣n phải chịu sự hành hạ của những chuyến xe già nua, cũ nát không có phụ tùng thay thế; đường sá xuống cấp không có kinh phí bảo tŕ. Vô phúc đi trên những chiếc xe “cải tiến thành công” từ chạy xăng sang chạy than, nếu may mắn tới đích, th́ ngoại trừ hai con mắt, từ đầu đến chân của mọi hành khách đều bị bọc trong khói bụi.
Thêm nữa, không phải cứ có tiền là có thể đi lại. Từ ngày 4-1-1977, việc “đi lại của nhân dân và cán bộ” đều phải có giấy tờ. Đi lại trong phạm vi thành phố và các tỉnh thành phố đều phải xin phép, phải đưa giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và giấy căn cước hoặc giấy chứng nhận cải tạo nếu có, đến công an phường, xă tŕnh bày lư do xin đi sẽ được xét cấp. Người đi đến các vùng bờ biển th́ phải mất nhiều ngày và không chắc được cấp giấy đi đường v́ chính quyền chống dân vượt biên355. Trong khi đó, trên các diễn đàn, chính quyền tiếp tục ngợi ca “những giá trị mới” mà người dân đang “được hưởng”.
“Cách mạng là đảo lộn”
Tại Sài G̣n, kể từ sau 30-4, ông Trần Bạch Đằng, với danh nghĩa là Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng, thường xuyên nói chuyện tại Câu lạc bộ Thanh niên Thành phố. Quan điểm của Trần Bạch Đằng lúc ấy đóng một vai tṛ quan trọng trong việc “định hướng thẩm mỹ Cách mạng” cho người dân miền Nam.
Trong một bài phỏng vấn đăng trên Tuổi Trẻ, Trần Bạch Đằng cho rằng “không nên có chủ trương cho thiếu nhi ca vọng cổ”. Ông nói: “Tuy vọng cổ phổ biến ở nước ta, đặc biệt ở Nam Bộ, nhưng đối với lứa tuổi nào đó, tỷ như các em nhi đồng và thiếu niên, th́ vọng cổ chưa hẳn có lợi hoàn toàn trong mục đích giáo dục… Âm điệu vọng cổ thường khó gây phấn chấn và nhứt là hạn chế tập thể trong khi biểu diễn tập thể lại là h́nh thức biểu diễn cần khuyến khích hiên nay”356.
Theo ông Trần Bạch Đằng: “Một trong những tội ác tày trời của đế quốc Mỹ và bọn tay sai” là “phủ nhận cái đẹp chân chính, cái đẹp về nội dung, cái đẹp tinh thần” và “cổ vũ cho cái đẹp h́nh thức, cái đẹp giả tạo, cái đẹp vật chất đơn thuần”. Sau khi chỉ trích các mỹ viện đua nhau ra đời theo sau sự “triển khai ồ ạt của chủ nghĩa thực dân mới” tại miền Nam, ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Nói cho cùng, chủ nghĩa thực dân mới mang đến cho một bộ phận thanh niên ta cái đẹp của người nô lệ, một cái đẹp vay mượn. Muốn giữ cái đẹp kiểu đó th́ phải suốt đời mất nước, suốt đời ăn xin”. Rồi ông kêu gọi thanh niên “đi vào lao động, phát giương cái đẹp của lao động đối với thanh niên, định lại chân lư, định lại giá trị của con người”357. Ông Trần Bạch Đằng nhấn mạnh: “Đó là một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng rộng lớn, sâu sắc, một sự đảo lộn và là một sự đảo lộn cần thiết”358.
Cùng thời gian đó, chính quyền cho phát hành tại Miền Nam một loạt sách báo cách mạng như: Học Tập Và Làm Theo Gương bác Hồ Vĩ Đại; Sống Như Anh (viết về liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi); Chuyện kể về Lư Tự Trọng, một người cộng sản chết trẻ với câu nói được cho là của anh và được Đoàn sử dụng như là một tuyên ngôn: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không c̣n con đường nào khác”. Đặc biệt, cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cộng sản – Thép Đă Tôi Thế Đấy – bắt đầu được đưa đến miền Nam. Đây là cuốn tiểu thuyết từng được dịch ra bảy mươi thứ tiếng do nhà văn Nga Nikolai Alexeevich Ostrovsky viết trong thời kỳ Stalin. Nhân vật chính của cuốn sách là Pavel Korchagin, được coi là “hóa thân” của Ostrovsky.
Phương châm sống của Pavel đă được chép lại trong hàng triệu cuốn sổ tay: “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận v́ những năm tháng đă sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn v́ dĩ văng ti tiện và hèn đớn của ḿnh, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đă hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người”. Thời gian đó, không ít thanh niên ngoài đời và thanh niên là nhân vật của những tác phẩm văn học mới, mỗi khi thấy “dao động”, lại ghi vào Nhật Kư: “Đồng chí Pavel ơi! ”359.
Các đoàn nghệ thuật Cách mạng, số từ trong rừng ra, số từ ngoài Bắc vào bắt đầu chiếm lĩnh các sân khấu Sài G̣n. Nhân dịp 2-9-1975, ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, 1.300 diễn viên từ các đoàn nghệ thuật đă tập trung ở Sài G̣n chuẩn bị cho những chương tŕnh biểu diễn mới. Đặc biệt, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, Đoàn Ca Múa Quân Giải phóng, Đoàn Ca Múa Pḥng Không Không quân, Đoàn Văn Công Hải quân, Đoàn Cải lương Giải phóng, Đoàn Kịch nói Nam Bộ, Đoàn Kịch nói Hà Nội… cũng bắt đầu đến Sài G̣n với các vở diễn như: Tiền Tuyến Gọi, Lam Sơn Tụ Nghĩa… Sài G̣n cũng không c̣n “Nỗi Buồn Hoa Phượng” với tiếng hát Thanh Tuyền; không c̣n “Chuyện Một Chiếc Cầu Găy” với Hoàng Oanh; không c̣n “Đêm Đông” với Bạch Yến; không c̣n “Tà Áo Xanh” với Lệ Thanh; không c̣n được “Ngậm Ngùi” với Lệ Thu và, cho dù đang bị kẹt lại, Thái Thanh cũng không c̣n được hát Phạm Duy, Phạm Đ́nh Chương… Chỉ những “nghệ sỹ Ngụy” được xếp vào hàng “không chống đối cách mạng” và được Hội Văn Nghệ cho làm tự kiểm điểm mới bắt đầu được bước lên sân khấu.
“Vua vọng cổ” Út Trà Ôn tự kiểm điểm với Cách mạng: “Tôi chỉ có một khuyết điểm không sửa được là có 5 bà vợ; c̣n đối với Cách mạng th́ tôi trong sạch”360. Chỉ một thời gian ngắn sau, Út Trà Ôn liên tục “lên sóng” với bài vọng cổ có tên “Đài Hoa Dâng Bác”. Nhờ những mối quan hệ đặc biệt, nữ nghệ sỹ Bạch Tuyết, người từng tham gia kư tên lên trái bom mà các phi công Sài G̣n mang ném ra miền Bắc, cũng bắt đầu được diễn trở lại. Những người không thực sự được nâng đỡ th́ chỉ có thể bước lên các sân khấu nhỏ. “Nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân lập đoàn gồm Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Lan… bữa đói, bữa no, ngủ đ́nh, ngủ chợ, mong được hát nhiều hơn là kiếm miếng ăn dẫu rằng ai cũng đói”361.
Ở các rạp chiếu bóng, những phim cũ cũng biến mất, nhường chỗ cho những phim của Liên Xô, Trung Quốc như: Bạch Mao Nữ, Cát Đỏ, Những Người Báo Thù Không Bao Giờ Bị Bắt… Lúc đầu, người dân Sài G̣n chưa quen những loại phim này, các rạp kêu rất dữ v́ có những suất chiếu chỉ có 14-15 người xem. Người dân cũng đă phản ứng trước một số chương tŕnh biểu diễn của các đoàn văn công miền Bắc. Theo Điện đề ngày 17-6-1975 của Ban Bí Thư, do “ông Lành” (Tố Hữu) kư gửi “anh Tư Ánh” (Trần Bạch Đằng): “Về việc các đoàn văn công biểu diễn gần đây bị quấy rối nhiều như điện anh đă báo, đề nghị các anh kiểm tra kỹ t́nh h́nh cùng cấp ủy địa phương có biện pháp tích cực ngăn chặn những hoạt động mất trật tự, phải giáo dục quần chúng”.
Chính quyền cũng nhận thấy không thể buộc người dân miền Nam phải “cai” những nhu cầu tinh thần đă gắn bó với họ hàng thập kỷ. Tuy nhiên, theo giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Sài G̣n sau 1975, ông Dương Đ́nh Thảo: Khi cho các nghệ sỹ diễn lại các vở cải lương ăn khách ở miền Nam như Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu, lập tức có phản ứng: “Thành phố đang vui vẻ đi lên thế này sao cho diễn những tuồng rên rỉ ấy”. Nhưng khi các nghệ sỹ Sài G̣n cố gắng diễn những vở “tráng ca”, không chỉ “dư luận” mà ở bên hành lang Quốc Hội nhiều vị khá quan trọng đă than phiền, “Thành ủy TP HCM để cho ‘nghệ sỹ Ngụy’ đóng cả Hai Bà Trưng”.
Ông Vơ Văn Kiệt nhớ lại, đấy không chỉ là sự ganh tị trong giới mà c̣n là nhận thức ấu trĩ về chính trị của khá nhiều lănh đạo. Ông đặt câu hỏi: “Ở Sài G̣n nếu đ̣i hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng th́ chỉ có Bà Định; đóng Lenin th́ chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có ai đi coi không?”362.
Dưới góc độ con người, những văn nghệ sỹ đến từ miền Bắc cũng có nhiều tâm trạng. Năm 1976, nhà thơ ba mươi sáu tuổi Vũ Quần Phương363 khi từ miền Bắc vào thấy “Cô ca sĩ Sài g̣n hát bài hát Trường Sơn”, đă viết:
Cùng mắc vơng trên rừng Trường Sơn
Bài hát viết từ rừng le, rừng khộp
Năm ấy Sài G̣n lô nhô cao ốc
Em chưa biết ǵ về rừng khộp, rừng le
Anh lên xe trời đổ cơn mưa
Mưa chưa ướt vai em khi ấy
Rau hết rồi, măng rừng anh hái
Hái măng rừng chưa có em đi
Trường Sơn đông gánh gạo rừng khuya
Cô gái ấy gánh đi, chứ em chưa biết gánh
Thuở cô ấy ở rừng em ngồi pḥng máy lạnh
Cô gái ấy không về và em hát hôm nay.
Đêm Sài G̣n đỏ rực cờ bay
Trước sân khấu, tôi ngồi nghe em hát
Em tô đỏ môi son, em kẻ xanh mi mắt
Cô gái ấy ở rừng không có gương soi
Bài hát như bàn tay c̣n ấm mồ hôi
Em đang vịn và đi từng hồi, từng nhịp
Những vui buồn đă xa, hôm nay em mới biết
Cô gái ấy rất hiền sẽ dắt tiếp em đi.
Bookmarks