Page 1 of 5 12345 LastLast
Results 1 to 10 of 45

Thread: Bên thắng cuộc - Huy Đức

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bên thắng cuộc - Huy Đức

    [B]Bên thắng cuộc - Huy Đức


    Sách chia làm 2 cuốn:

    Cuốn I: Giải Phóng
    Cuốn 2: Quyền Bính

    Mục Lục Cuốn I

    PHẦN I: MIỀN NAM

    Chương I: Ba Mươi Tháng Tư Diễn biến quân sự và chính trị trong giai đoạn kết thúc cuộc chiến và những ǵ xảy ra trong dinh Độc Lập trong ngày 30-4 (Đi từ bưng biền/ Xuân Lộc/ Tướng Big Minh/ Trại Davis/ Nguyễn Hữu Hạnh/ Sài G̣n trong ṿng vây/ Xe tăng 390/ Đầu hàng/ Tuẫn tiết)



    Chương II: Cải TạoNhững bàn bạc bên trong, quan điểm của chính quyền trong việc đối xử với “ngụy quân, ngụy quyền”, những thủ thuật được áp dụng để đưa sĩ quan vào trại cải tạo; số phận của những người tù không án, không biết ngày về và những bi kịch mà người thân của họ phải nhiều năm gánh chịu. (Những ngày đầu/ “Ngụy Quyền”/ “Ngụy Quân”/ “Đoàn tụ”/ “Phản động”/ Tù và cải tạo/ “Thăm nuôi”/ “Học tập”).



    Chương III: Đánh Tư SảnNhững công cụ chuyên chính vô sản áp dụng ngay sau ngày 30-4-1975: Đánh tư sản vào tháng 9-1975 và liền sau đó là đổi tiền lần thứ nhất 22-9-1975; Cải tạo tư sản tháng 3-1978… Sự khác nhau của cải tạo tư sản và đánh tư sản (“Chiến dịch X-2”/ Đổi tiền/ “Gian thương”/ “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”/ Hai gia đ́nh tư sản/ Kinh tế mới)



    Chương IV: Nạn Kiều

    Sự thật về vấn đề người Hoa năm 1978 (Đội quân thứ năm/ Hiệp định Geneve/ “chổi ngắn không quét xa”/ Hoàng Sa/ Sợ “con ngựa thành Troy”/ ‘Nạn Kiều”/ “Phương án II”/ “Ban 69”/ Vụ Cát Lái).

    Chương V: Chiến Tranh

    Nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh ở CPC và biên giới phía Bắc năm 1979 (Biên giới Tây Nam/ Pol Pot/ Đi dây/ Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ/ “Kẻ Thù Lịch Sử”/ Thất bại trong tấn công ngăn chặn [Pre-emptive War]/ “Nhất biên đảo”/ “Áo lính lại khoác vào ngay”).

    Chương VI: Vượt Biên

    Điều ǵ đă khiến cho hàng triệu người VN phải bỏ nước ra đi. Bi kịch của người dân và thái độ chính quyền trước cuộc tị nạn lớn nhất của người Việt Nam trong lịch sử (“Vượt biên”/ Từ “trí thức yêu nước”/ Đến “thường dân”/ Trước khi tới biển/ Trại tị nạn).

    Chương VII: “Giải Phóng”

    Cuộc chiến tranh được gọi là giải phóng có thực sự giải phóng sau những ǵ mà những người cộng sản áp dụng tại miền Nam (Sài G̣n thay đổi/ Kinh tế mới/ Đốt sách/ Cạo râu/ “Cách mạng là đảo lộn”/ Ḷng người/ Những người sinh ra không đúng cửa/ “Cánh cửa” Thanh niên xung phong/ Cửa không đủ rộng/ “Nổi loạn”/ “Sài G̣n lại bắt đầu ghẻ lở”).

    PHẦN II: THỜI LÊ DUẨN

    Chương VIII: Thống Nhất

    Những lo lắng từ hai phía đặc biệt là của ông Lê Duẩn dẫn đến quyết định thống nhất hai miền cả về chính trị và kinh tế, áp dụng mô h́nh miền Bắc vào miền Nam một cách vội vă, mặc dù, nhiều người lúc đó, kể cả ông Lê Duẩn, nhận thấy nền kinh tế tư nhân miền Nam hiệu quả hơn những ǵ áp dụng trên miền Bắc (Nước Việt Nam là một/ “Bắc hóa”/ Chủ nghĩa xă hội/ “Con đường của Bác”/ “Mỗi người làm việc bằng hai”/ Lê Duẩn và mối t́nh miền Nam/ Chấp chính và chuyên chính).

    Chương IX: Xé Rào

    Chính sách kinh tế kế hoạch hóa và sản xuất lớn nhằm “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN” đă dẫn đất nước đến chỗ kiệt quệ. Người dân và chính quyền các địa phương, thay v́ tuân thủ các nguyên tắc của nền kinh tế “kế hoạch hóa tập trung” chấp nhận một số quy luật của kinh tế thị trường, tiến tŕnh này bị coi là “xé rào” nhưng chính những “lỗ thủng” đó đă trở thành lối thoát cho dân chúng (Bế tắc/ Mậu dịch quốc doanh/ Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng/ Tháo gỡ/ Nghị quyết Trung ương Sáu/ Bù giá vào lương/ Cắm cờ xé rào/ Khoán chui/ Ông Kiệt xé rào, ông Linh lănh đạn/ “Ai thắng ai”).

    Chương X: Đổi Mới

    Vai tṛ của Trường Chinh trong việc tiếp thu thực tiễn và chuẩn bị về mặt lư luận để những người cộng sản chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, điều mà về sau gọi là đổi mới (Hội nghị Đà Lạt/ Nhóm giúp việc mới/ Người của những khúc quanh lịch sử/ Từ chính sách Kinh Tế Mới/ Đến chọc thủng bức tường bao cấp/ Giá-Lương-Tiền/ Nă pháo vào bộ tổng/ Khép lại trang sử Lê Duẩn/ Vai tṛ của Mikhail Gorbachev/ Tuyên ngôn đổi mới/ Bàn tay Lê Đức Thọ/ Phút 89).

    Chương XI: Campuchia

    Dù muốn hay không, Campuchia đă “nằm trong một trang sử” của Việt Nam. Không gian chiến tranh trong thập niên 1980s và cách mà Việt Nam đă làm để thoát ra khỏi hai cuộc chiến: Biên giới phía Bắc và Campuchia (“Pot ở đầu phum ta cuối phum”/ “Xuất khẩu cách mạng”/ Tư tưởng nước lớn/ Bị cô lập/ Phương Bắc/ Hội nghị Thành Đô/ Campuchia thời hậu Việt Nam).

    (HẾT CUỐN I)





    ———————————————————— ——————



    Bên Thắng Cuộc

    Huy Đức

    Cuốn I : Giải Phóng



    PHẦN I : MIỀN NAM

    Chương 1: Ba Mươi Tháng Tư

    Diễn biến quân sự và chính trị trong giai đoạn kết thúc cuộc chiến và những ǵ xảy ra trong dinh Độc Lập trong ngày 30-4 (Đi từ bưng biền/ Xuân Lộc/ Tướng Big Minh/ Trại Davis/ Nguyễn Hữu Hạnh/ Sài G̣n trong ṿng vây/ Xe tăng 390/ Đầu hàng/ Tuẫn tiết)

    Đăng trong: 11/12/2012 | Tác giả: hosytan | Filed under: Bên thắng cuộc | Tags: Bên thắng cuộc, Huy Đức

    http://hosytan.wordpress.com/2012/12...muoi-thang-tu/

    Ba mươi tháng Tư năm 1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt hơn hai mươi năm “da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”. Nhưng, không phải cứ súng ống vứt đi là sẽ có ḥa b́nh.

    Đi từ bưng biền



    Sáng sớm ngày 30-4-1975, “cánh” của ông Vơ Văn Kiệt về tới một khu “đám lá tối trời” thuộc huyện B́nh Chánh. Hai mươi hai ngày trước, ông Lê Đức Thọ vào Trung ương Cục, sau đó, công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh6, đồng thời trao quyết định cử ông Vơ Văn Kiệt làm bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản Sài G̣n-Gia Định, cử ông Lê Đức Anh làm phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy ban Quân quản, và ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh đảm trách lực lượng nổi dậy phối hợp với quân chủ lực.

    Từ R, căn cứ Trung ương Cục ở huyện Lộc Ninh, ông Kiệt cùng một bộ phận phục vụ gọn, khoảng hai trung đội, chạy xe Honda 67 bọc qua phía Campuchia, tới cửa biên giới Mỏ Vẹt, Long An th́ bỏ xe lại, đi bộ. Ông Kiệt không lúc nào rời chiếc radio ba làn sóng hiệu JVC của Nhật. Đài Hà Nội lúc đó gần như liên tục phát Băo Nổi Lên Rồi, một bài hát mà nhịp điệu th́ hối hả, lời lẽ th́ thôi thúc: “Từ Trị Thiên băng qua Tây Nguyên đi tới bưng biền ḷng người bừng bừng, cùng tiến lên thời cơ đă đến rồi”.

    Thời cơ đă đến! Anh em phục vụ quan sát thủ trưởng, trong ḷng cảm thấy lần này chắc ăn. Nhưng thủ trưởng vẫn im lặng. Ngày 27-4, đoàn vượt qua sông Vàm Cỏ Đông, tới xă Mỹ Hạnh, huyện Đức Ḥa, gặp cánh ông Mai Chí Thọ đă về trước ém quân ở đó. Ông Năm Xuân Mai Chí Thọ, phó bí thư Khu uỷ Sài G̣n-Gia Định vào thời điểm đó, là người thông thạo các đầu mối hoạt động nội thành. Hai đoàn bắt đầu nhập lại làm một. Ít ai nghĩ rồi những người đàn ông mặc đồ bà ba đen, đi dép râu, mặt mũi khắc khổ, đang xắn quần lội ruộng đó, chỉ vài ngày nữa sẽ nắm quyền lănh đạo Sài G̣n – Ḥn Ngọc Viễn Đông.

    Sáng hôm sau, khi sương sớm c̣n phủ trắng, từ nơi tạm dừng nh́n qua phía bên kia cánh đồng, cánh ông Kiệt nh́n thấy lố nhố xe pháo. Lúc đầu có người tưởng là xe tăng “địch”, tới khi sương mù bớt đi mới nhận ra: “Cơ man tăng. Tăng ḿnh!”. Ông Kiệt viết thư, niêm kín, ra lệnh cho thư kư riêng là ông Phạm Văn Hùng (Ba Hùng), đi kiếm Trung tướng Lê Đức Anh. Tướng Lê Đức Anh tới lúc ấy vẫn là phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao chỉ huy Đoàn 232, một lực lượng tương đương quân đoàn, tiến vô Sài G̣n ở hướng Tây Nam. Dọc đường Ba Hùng đi, đạn pháo nằm la liệt trên các bờ ruộng, bờ kênh; dân công rầm rập, bộ đội, xe tăng lớp lớp. Tướng Lê Đức Anh viết thư trả lời “Anh Sáu Dân” (bí danh của ông Kiệt), rồi cũng niêm kín, đưa Ba Hùng cầm về. Sau này ông Phạm Văn Hùng mới biết đó là thông tin về giờ G. Giờ G, ngày N, tức 00 giờ 00 phút ngày 29-4-1975, là giờ quy định cho tất cả năm cánh quân của quân Giải phóng đồng loạt nổ súng tấn công vào Sài G̣n.

    Trưa 29-4, đoàn lội bưng, băng vô vườn thơm Tân Nhựt, B́nh Chánh, hạ trại nấu cơm. Bếp rơm có khói, một chiếc trực thăng trờ tới, lia vài băng đạn vu vơ. Cách đó không xa lắm là đồn Lư Văn Mạnh, nhưng lính trong đồn giờ đó đă không c̣n dám ra ngoài. Đêm ấy, ở lại Tân Nhựt, Ba Hùng mắc vơng bên cạnh ông Kiệt, nằm nghe tiếng pháo, sau biết là “ta pháo kích vô Tân Sơn Nhất”, hai thầy tṛ trăn trở không làm sao ngủ được. Sáng 30-4, ông Kiệt, trong khi trao đổi t́nh h́nh với ông Mai Chí Thọ, không quên phân công người theo dơi đài phát thanh và cho phép anh em nấu ăn. Từ đêm trước, chưa ai có hột cơm nào vô bụng.

    Tới khoảng 9 giờ 30 phút sáng, Đài Sài G̣n im lặng rất lạ, rồi tiếng phát thanh viên: “Mời đồng bào nghe tuyên bố của Tổng thống”. Mọi người xúm lại quanh chiếc radio theo dơi phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam. V́ lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sỹ Cộng hoà hăy b́nh tĩnh, ngưng nổ súng, và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sỹ Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chánh quyền trong ṿng trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng bào”.

    Lời Tướng Minh vừa dứt, Vơ Văn Kiệt ra lệnh: “Giản chính đồ đạc. Đi!”. Đoàn người lúc đó chẳng kịp ăn uống mà vẫn no tới tận cổ, băng đồng ra lộ, đi về hướng Phú Lâm, cửa ngơ phía Tây Thành phố. Dọc đường, lính Sài G̣n bắt đầu trút bỏ quân phục, súng ống, binh khí vất la liệt. Anh em bảo vệ lúc đầu c̣n khệ nệ xách, sau thấy lếch thếch quá, lại vứt đi. Có nơi lính Sài G̣n ra hàng cả tiểu đoàn. Quân Giải phóng chỉ kịp giải thích chính sách rồi ai ở đâu về đó. Sự tan ră của chế độ Sài G̣n diễn ra gấp gáp khiến ông Kiệt quá sốt ruột. Ông gọi Tư Thạch và Chín Anh, hai người cận vệ vốn là dân thành phố, đến, ra lệnh: “Hai đồng chí t́m cách kiếm xe, nhanh chóng đưa Đại quân vô Sài G̣n!”.

    Chín Anh cùng Tư Thạch ra lộ, gặp hai người bận đồ công nhân, chạy xe máy từ phía Sài G̣n ra. Chín Anh nói: “Tụi tôi là Giải phóng. Nhờ mấy anh quay lại, đưa tụi tôi vô Sài G̣n”. Hai người này sốt sắng: “Mời mấy anh”. Chín Anh tính đi thẳng vô Phú Lâm nhưng mới tới xa lộ vành đai th́ thấy một chiếc xe tải quân sự hiệu GMC mới cáu đậu sẵn bên lề đường. Trên xe không biết lực lượng nào đă cắm sẵn một lá cờ Giải phóng. Chín Anh hỏi: “Mấy anh biết lái xe không?”. Một người nói liền: “Tôi là tài xế nè”. Chín Anh cho kiểm tra lại xe, thấy xe tốt, kêu hai “chiến sỹ” vừa được “trưng dụng” đưa xe máy vô nhà dân cạnh đường gửi, rồi lái chiếc xe quay lại.

    “Đại quân” lúc này vẫn đi bộ theo Lộ 10, gặp xe mừng quá, nhanh chóng leo lên. Chín Anh ngồi bên cạnh tài xế, ông Kiệt và ông Năm Xuân ngồi kế bên. Bốn, năm anh em khác bám hai bên thùng xe để bảo vệ. Một tốp thanh niên thấy chiếc GMC cắm cờ Giải phóng chạy vô phố, cứ thế phóng xe máy theo. Dọc đường, chỗ nào cũng có lính Việt Nam Cộng hoà cởi áo, cởi giày, chạy. Người dân gom vô, lấy chỗ cho chiếc xe quân sự Mỹ chở một trong những nhà lănh đạo “Việt cộng” đầu tiên tiến vào Sài G̣n.

    Ông Vơ Văn Kiệt, ông Mai Chí Thọ và những người trên chiếc xe GMC hôm đó, có người đă suốt ba mươi năm mắc vơng nằm rừng. Giờ ngắm phố xá chạy vùn vụt bên cửa xe, mắt họ cay xè v́ sung sướng. Không ai trong số họ, sau đó, có thể diễn đạt lại được cảm giác khi ấy của ḿnh, nhưng cuộc đời họ rồi sẽ khó ḷng có lại một niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui trong cái ngày 30-4 đó.

    Xuân Lộc



    Trong khoảng thời gian cánh ông Vơ Văn Kiệt t́m cách di chuyển vô nội thành, chính những chiếc tăng của Lữ đoàn 203, Quân đoàn II đă viết nốt những ḍng cuối cùng của một trang sử.

    Kế hoạch “bao vây chiến lược Sài G̣n” bắt đầu từ ngày N. Lúc đầu, theo Tướng Trần Văn Trà, ở phía Tây, Đoàn 232 do Tướng Lê Đức Anh làm tư lệnh cũng gặp không ít khó khăn; phía Đông, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-4, Quân đoàn IV gồm hai sư đoàn tấn công thị xă Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cuộc tấn công đă chọc thủng tuyến pḥng ngự thị xă bằng nhiều mũi, nhanh chóng phát triển vào trung tâm. Tuy nhiên, sau khi cắm cờ trên dinh tỉnh trưởng và làm chủ một loạt các căn cứ khác, ngày 10-4, một lữ đoàn dù của Việt Nam Cộng ḥa được trực thăng vận đưa tới thị xă để chi viện gấp và “giữ tinh thần cho Sư đoàn 18”.

    Cho đến ngày 15-4, gần hết tăng thiết giáp của Quân đoàn III và một lực lượng tương đương một sư đoàn thuộc quân trù bị dù và thủy quân lục chiến của Sài G̣n đă được điều về. Trận Xuân Lộc được được coi là khốc liệt nhất trong toàn chiến dịch. Quân đội Sài G̣n đă ném xuống đây hai loại bom có khả năng sát thương hàng loạt: Daisy Cutler và CBU7. “Mất Xuân Lộc là mất Sài G̣n”, mọi sức mạnh có thể đều được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sử dụng.

    Hăng UPI (Mỹ), ngày 12-4, cho rằng, Xuân Lộc được chọn làm nơi thí nghiệm khả năng chiến đấu của quân Nam Việt Nam. Khi quân Giải phóng gặp khó khăn, thương vong rất lớn ở Xuân Lộc, báo chí Sài G̣n đánh giá khả năng chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa đă hồi phục, và c̣n đủ mạnh để giữ vững chế độ.

    Theo Tướng Trần Văn Trà, t́nh h́nh đó khiến cho “các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và cả anh Lê ĐứcThọ rất lo lắng”. Tướng Trà viết: “Trận đánh quá ác liệt, e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. V́ vậy các anh gợi ư có thể cho anh em rút ra khỏi thị xă… tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm rơ t́nh h́nh cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh. Các anh đều đồng ư”8. Chiều 11-4, Tướng Trà đến chỉ huy sở của Quân đoàn IV đóng trên bờ sông La Ngà. Sau khi nghe ư kiến của các tướng chỉ huy ở đây, Tướng Trà kết luận: “Xuân Lộc là điểm then chốt, hết sức quan trọng trong tuyến pḥng ngự, nên địch đă tập trung nhiều lực lượng cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đă chiếm ưu thế so với ta. Ta cũng không c̣n giữ được yếu tố bất ngờ. V́ vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi… Nếu ta chiếm ngă ba Dầu Giây và giữ vững luôn… th́ Xuân Lộc tự dưng mất hết tác dụng v́ bị đặt ra ngoài tuyến pḥng thủ. Biên Ḥa th́ sẽ lập tức bị uy hiếp”9. Tất cả nhất trí với phương án tác chiến này.

    Để chuẩn bị cho chiến dịch được đặt tên là Hồ Chí Minh, Quân đoàn I được điều từ miền Bắc vào; Quân đoàn II th́ vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển. Tướng Trà viết: “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, có xe tăng đến nơi nhưng xăng dầu hết, đạn pháo chỉ c̣n một hai viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên thắng cuộc - Huy Đức
    P2



    Cán bộ tham mưu và hậu cần vùi đầu với công việc, mỗi ngày làm việc gấp mấy lần ngày thường. Nhưng tinh thần phơi phới”10.

    Ngày 18-4, ông Lê Đức Thọ, đại diện Bộ Chính trị đă cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch duyệt lại kế hoạch lần cuối. Trước đó, trong Điện số 07, ông Lê Duẩn viết: “Tôi đă bàn với anh Văn (Vơ Nguyên Giáp), nhận thấy cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn III và Quân đoàn I (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn, chưa nên làm bây giờ”11. Rạng sáng ngày 21-4, các tuyến pḥng thủ cuối cùng của chính quyền Sài G̣n tại Xuân Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn c̣n sống sót của Sư đoàn 18 quân đội Việt Nam Cộng ḥa với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đă phải thoát khỏi thành phố đổ nát ấy bằng máy bay lên thẳng.

    Đầu tháng 4-1975, trong một cuộc họp báo tại Nhà Trắng, khi các phóng viên đặt vấn đề loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu mở đường cho một chính phủ “có thể nói chuyện với Hà Nội” lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ Gerald Ford nói: “Tôi không tin là tôi có quyền ra lệnh cho một nguyên thủ quốc gia được dân bầu rời nhiệm sở”12. Tuy nhiên, hơn hai tuần sau, vào ngày 20-4-1975, cả Tổng thống Gerald Ford và Ngoại trưởng Henry Kissinger đều đồng ư để đại sứ Mỹ tại Sài G̣n Graham Martin nói bóng gió với ông Thiệu về việc nên “cân nhắc từ chức”.

    Nhà Trắng hy vọng với việc từ chức của ông Thiệu, Liên Xô có thể giúp nói với miền Bắc đàm phán để có “thêm vài ngày sơ tán những người Việt Nam có liên hệ với Mỹ”. “Với một điệu bộ khá lạnh lùng, Thiệu trả lời rằng ông sẽ làm tất cả những ǵ tốt đẹp cho đất nước của ông”13. Tuy nhiên, vào buổi trưa hôm sau, ngày 21-4- 1975, khi không c̣n Xuân Lộc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương đến văn pḥng, thông báo là ông từ chức. Chiều tối hôm đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền h́nh công khai quyết định của ḿnh và giao quyền cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.

    Lúc 3 giờ 30 phút chiều ngày 22-4-1975, từ Hà Nội, một bức điện kư tên Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn được chuyển vào chiến trường: “Các anh ra chỉ thị ngay cho các hướng hành động kịp thời, chú trọng kết hợp tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng, sự hợp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá tŕnh hành động. Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành toàn thắng”14.

    Ngày 26-4-75, Tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh Chiến dịch, và Tướng Trần Văn Trà di chuyển xuống Sở Chỉ huy tiền phương; hai ngày sau, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng tới. Đến lúc ấy th́ t́nh h́nh đă ngă ngũ. Sài G̣n hoàn toàn bị vây hăm. Phía Tây, Sư đoàn 5 của Đoàn 232 bắt đầu tấn công vào Sư đoàn 22, từ Tân An lên đến Cầu Voi; Trung đoàn 16 đánh chiếm cầu B́nh Điền và cầu An Lạc; hai Trung đoàn đặc công 115 và 117 chiếm Phú Lâm. Xa hơn về phía tây, Lộ 4 bị cắt ở Cai Lậy.

    Cũng từ ngày 26-4, Sư đoàn 8 Quân khu VIII đă cắt hoàn toàn Lộ 4 đoạn từ ngă ba Trung Lương lên giáp Tân An. Lực lượng Quân khu IX cũng khống chế được đoạn Cái Vồn-Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt đồng bằng Cửu Long bị băm nát. Về phía Đông, Quân đoàn II ngày 26-4 cũng nổ súng tấn công căn cứ huấn luyện thiết giáp Nước Trong, đánh chi khu Long Thành; ngày 27-4 chiếm thị xă Bà Rịa. Đường 15 bị cắt đứt hoàn toàn. Cùng đêm 26-4, Trung đoàn đặc công 116 bắt đầu đánh cầu xa lộ Đồng Nai; Trung đoàn 10 đặc công đánh từ Phước Khánh đến ngă ba Đồng Tranh, khóa chặt đường sông. Sân bay Biên Ḥa bị bắn phá bằng pháo 130 ly. Ngày 23-4, sân bay Biên Ḥa bị đóng cửa cùng lúc với ṭa lănh sự Mỹ ở thị xă Biên Ḥa. Sài G̣n chỉ c̣n kiểm soát hai sân bay cuối cùng: Lộ Tẻ (Cần Thơ) và Tân Sơn Nhất”15.

    Tướng Big Minh

    Đầu tháng 4-1975, có những thông tin cho thấy người Mỹ quan tâm tới “phương án Big Minh”. Tài liệu của CIA nói là ngày 2-4-1975, trùm CIA tại Sài G̣n Thomas Polgar gửi một bức điện về Tổng Hành dinh đề xuất lật Thiệu để đưa Dương Văn Minh lên thay, hy vọng thành lập được một chính phủ liên hiệp “có khả năng làm chậm lại cuộc xâm lược của Bắc Việt”16. Theo Polgar, trưởng đoàn Hungary trong Ủy ban Kiểm soát Bốn bên nói Hà Nội cho biết nếu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị loại th́ Bắc Việt sẵn sàng thương thuyết. Tại Dinh Hoa Lan (vốn là một dinh thự của Đức Từ Cung ở số 3 Trần Quư Cáp, nay là Vơ Văn Tần, được Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ban tặng cho Tướng Minh), nhóm ông Minh bắt đầu thảo luận về khả năng chấp chính.

    Đại tướng Dương Văn Minh17 sinh năm 1916 tại Mỹ Tho. Cha ông, Đốc phủ sứ Dương Văn Huề, có bảy người con. Em kế ông Minh, Dương Thanh Nhựt, “tập kết” ra Bắc năm 1954. Ông Minh, vốn là một sỹ quan trong quân đội Pháp, sau Cách mạng tháng Tám đă từng tham gia kháng Pháp. Từ năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ, khi ấy được lănh đạo bởi ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, đă yêu cầu Cục trưởng Cục Địch vận Vơ Văn Thời giao nhiệm vụ cho Dương Thanh Nhựt về Nam để tiếp cận với Dương Văn Minh. Tháng 3-1961, Dương Thanh Nhựt, bấy giờ mang bí danh Mười Ty, về đến miền Nam, và tới tháng 8-1962 th́ móc nối được với cậu ruột và vợ là Sử Thị Hương.

    Ngày 1-11-1963, Dương Văn Minh, người hùng của Ngô Đ́nh Diệm, đă nhân danh chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng phát lệnh đảo chính tổng thống.

    Năm 1967, khi Dương Văn Minh đi Pháp, ông Mười Cúc cũng đă cử Mười Ty qua Paris; trước đó, Mười Ty cũng được đưa qua Hồng Kông t́m Dương Văn Minh, nhưng cả hai lần đều không gặp18.

    Giữa tháng 4-1975, tại một nhà hàng đặc sản của Tướng Mai Hữu Xuân nằm trong rừng cao su trên xa lộ Đại Hàn có tên là Đường Sơn Quán, ông Dương Văn Minh tổ chức họp mặt với đông đủ báo giới trong và ngoài nước, tuyên bố “sẵn sàng thay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu như một giải pháp t́nh huống để t́m cơ hội ḥa b́nh cho miền Nam”. Sau cuộc họp báo, ngày 17-4, Đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đă đến Dinh Hoa Lan bằng xe có cắm quốc kỳ Pháp. Hành động của ông Đại sứ được báo chí Sài G̣n b́nh luận là cố t́nh vi phạm nguyên tắc ngoại giao nhằm công khai lập trường của Pháp đối với t́nh h́nh chính trị miền Nam.

    Sau khi từ chức, ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và gia đ́nh vẫn sống trong Dinh Độc Lập. Phe đối lập và Đài Hà Nội liền gọi Sài G̣n là “Chính phủ Thiệu mà không có Thiệu”. Cả Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương và Tướng Big Minh đều đánh tiếng để Đại sứ Martin thu xếp đưa ông Thiệu đi. Về mặt công khai, chuyến đi của ông Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Trần Thiện Khiêm là “công cán”.

    Buổi chiều ngày 25-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với sự tháp tùng của một sỹ quan tùy viên, Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu, đi một ṿng “hậu dinh”, nơi ở của gia đ́nh ông, và chỉ ra yêu cầu chuẩn bị đồ đạc cá nhân để đưa về tư gia. Sau đó, ông đến văn pḥng tổng thống. Sỹ quan tùy viên của ông Hương nói “Tổng thống đang họp”. Ông Thiệu đưa cho viên sỹ quan một phong thư, dặn khi nào Tổng thống họp xong th́ tŕnh.

    Theo ông Nguyễn Đức Từ, một trợ tá và là em rể họ của ông Thiệu, bức thư viết: “Thưa cụ, theo chỉ thị của cụ, tôi và Đại tướng Trần Thiện Khiêm đi giải độc tại các quốc gia bạn, cùng với đoàn tùy tùng gồm: Đại tá Đức, Đại tá Thiết, Đại tá Diên, Trung tá Chiêu…”. Sau đó, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng đến nhà Tướng Khiêm ở Bộ Tổng Tham mưu; tại đây, một tiệc nhẹ đă dọn sẵn. Ăn xong, Tướng Nguyễn Văn Thiệu cùng Trung tá Chiêu đi bộ về nhà, cũng trong khuôn viên Bộ Tổng. Khi họ quay lại th́ bàn ăn nhà Tướng Khiêm đă được dùng làm bàn thủ tục cho chuyến bay.

    Khoảng 9 giờ tối, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng được đưa ra phi trường bằng ba chiếc xe do hai sỹ quan CIA lái. Đoàn xe ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham mưu, thay v́ rẽ phải vào phi trường, đă rẽ trái đi ngược ra Sài G̣n, vào Chợ Lớn, qua trường đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả… qua cổng Phi Long, Bộ Tư lệnh Không quân, theo đường ngược chiều chạy vào sân bay. Tại “cổng nhà kính” của Không quân, đèn tắt, không có nhân viên Việt Nam nào làm việc, chỉ có thủy quân lục chiến và quân cảnh Mỹ. Sau khi nhận tín hiệu bằng đèn pin, đoàn xe đi qua, chạy thẳng tới cầu thang một chiếc máy bay C-118. Ở đó, Đại sứ Mỹ Martin đă đứng chờ đưa tiễn. Đêm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay đi Đài Loan19.

    Những ngày ấy, trong Dinh Hoa Lan, theo mô tả của một người kề vai sát cánh với ông Dương Văn Minh, Dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, là “những ngày dài như vô tận”. Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương, người trước đó được Tướng Nguyễn Văn Thiệu phong hàm “hạ sỹ danh dự” đă “quyết tử thủ dù Sài G̣n có phải tắm máu”. Tướng Big Minh nói với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận: “Toa (anh) làm thế nào đó th́ làm, nếu ông Hương cứ kéo dài hoài th́ moa (tôi) không nhận đâu!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận hiểu đại từ tiếng Pháp “toi” mà ông Tướng nói là nhằm chỉ ông Nhuận và nhóm dân biểu đối lập đang “quậy” ở Quốc hội để ông Hương từ chức. Nghe ông Tướng nói “moa không nhận”, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận nghĩ tới cái ghế tổng thống mà tới giờ đó “ai cũng thấy là không c̣n cái chân nào”, ông Nhuận xót xa nghĩ: “Ông Tướng đă từng muốn xua đi chén đắng để cuối cùng chấp nhận uống chén đắng cho tới cặn sao”20.

    Sau đó, trong một cuộc họp ở Dinh Hoa Lan, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận khuyên Tướng Big Minh “thôi”. Ông Dương Văn Minh ngạc nhiên: “Giờ này mà toa c̣n nói đâm bang!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận bỏ pḥng họp lên sân thượng. Dân biểu Dương Văn Ba sau đó theo lên nói: “Anh đừng buồn”. Ông Hồ Ngọc Nhuận nói: “Nếu ông Tướng nhận, người ta sẽ làm nhục, giờ này th́ chỉ có đầu hàng thôi. Cho dù lâu nay hoạt động của chúng ta có gián tiếp tiếp tay cho họ (phía Cách mạng), nhưng tôi không muốn đứng trong hàng ngũ những người sẽ bị họ bắt quỳ gối, đầu hàng”. Kể từ đó, ông Nhuận không tham gia các cuộc họp bàn thành lập “nội các” nữa, cho dù nhiều người muốn ông Nhuận, người đă từng là quận trưởng Quận 8 và đang là một dân biểu đối lập hàng đầu, ra tay “giúp ông Tướng” mà nhận lănh vai tṛ “đô trưởng”.

    Ngày 27-4-1975, Quốc hội Sài G̣n nhóm họp. Chỉ c̣n 136 nghị sỹ trên tổng số 219 của lưỡng viện có mặt, phần đông trong số họ đă di tản ra nước ngoài. Bộ trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn và Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên đă đến để thuyết tŕnh t́nh h́nh chiến sự. Măi tới 8 giờ 54 phút tối hôm ấy, các nghị sỹ mới biểu quyết thông qua nghị quyết: “Yêu cầu ông Trần Văn Hương trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh để mưu cầu ḥa b́nh cho dân tộc”.

    Ngày 28-4, Tướng Dương Văn Minh chính thức công bố thành phần chính phủ: Luật sư Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng viện, giữ chức phó tổng thống; luật sư Vũ Văn Mẫu giữ chức thủ tướng. Nội các c̣n có thêm một thành viên chính thức nữa là Tổng trưởng Thông tin Lư Quư Chung.
    Quyết định đầu tiên của Đại tướng Dương Văn Minh là kư Văn thư số 33/TT/VT “mật – hỏa tốc” với nội dung: “Tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa. Kính gửi ông Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam. Thưa ông Đại sứ. Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui ḷng ra chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi Việt Nam trong ṿng hai mươi bốn giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề ḥa b́nh Việt Nam sớm được giải quyết. Trân trọng kính chào ông Đại sứ. Sài G̣n ngày 28-4-1975. Kư tên: Đại tướng Dương Văn Minh”.

    Trại Davis

    Sáng 29-4-1975, một người bạn cùng sinh hoạt tôn giáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền là nhà nghiên cứu Nguyễn Đ́nh Đầu chủ động gặp ông Huyền hỏi: “Chính quyền ông Dương Văn Minh thành lập được nói là để ḥa giải dân tộc, vậy các anh đă tiếp xúc ǵ với phía bên kia chưa?”. Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền nói chưa, và đề nghị ông Nguyễn Đ́nh Đầu vào trại Davis gặp đại diện Cách mạng có mặt ở đó với tư cách là thành viên thuộc Ủy Ban Liên lạc Bốn bên theo Hiệp định Paris.
    Từ năm 1939, ông Nguyễn Đ́nh Đầu hoạt động trong phong trào Thanh Lao Công, một tổ chức của lực lượng thanh niên Công giáo. Tại đó, ông gặp ông Nguyễn Mạnh Hà, nguyên giám đốc Kinh tế Bắc kỳ trong chính phủ thân Nhật của ông Phan Kế Toại, người được ông Vơ Nguyên Giáp tiến cử làm bộ trưởng Kinh tế sau Cách Mạng tháng Tám. Ông Hà chọn ông Nguyễn Đ́nh Đầu làm bí thư Bộ, một trong bốn viên chức chính trị của Bộ21.

    Phái đoàn vào trại Davis hôm 29-4-1975 gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông Nguyễn Đ́nh Đầu, Kỹ sư Tô Văn Cang và ông Nguyễn Văn Hạnh. Dọc đường đi họ gặp rất nhiều trở ngại do binh lính cản đường. Ở trại Davis, một cán bộ Cách mạng tiếp họ nhưng nói là Phái đoàn Chính phủ Cách mạng không có nhiệm vụ tiếp xúc. Nhưng khi trao đổi không chính thức, vị cán bộ này gợi ư: chỉ cần các ông chấp nhận “Tuyên bố ngày 26-4-1975 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam”22.

    Trở về từ trại Davis, ông Diệp báo cáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền. Sau khi có tranh luận trong nội bộ Chính phủ, ông Nguyễn Văn Diệp và ông Nguyễn Đ́nh Đầu về nhà ông Diệp cùng soạn thảo bản tuyên bố “Chấp nhận Điều kiện Ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16 giờ và ngay sau đó được “Phó Tổng thống đặc trách đàm phán” Nguyễn Văn Huyền tŕnh lên Tổng thống. Tướng Dương Văn Minh chấp thuận. Ông Nguyễn Văn Huyền đă công bố bản này trên Đài Phát thanh Sài G̣n vào lúc 17 giờ ngày 29-4-1975. Cũng trong ngày 29-4, sau bữa cơm trưa, Luật sư Trần Ngọc Liễng, một người hoạt động trong lực lượng thứ ba, tới Dinh Hoa Lan gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Ông Liễng, một người của phía Cách mạng, thông báo với ông Minh về “bốn giàn pháo của quân Giải phóng đặt quanh Sài G̣n” và nói: “Nếu anh chấp nhận không chống cự th́ tôi lên ngay trại Davis báo ư này với phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam và yêu cầu họ không pháo kích vào Sài G̣n, tránh cho nhân dân khỏi bị chết chóc, Sài G̣n không đổ nát”. Ông Minh suy nghĩ rồi nói: “Liễng đi đi”.

    Khoảng 15 giờ, “sứ bộ” thứ hai gồm Luật sư Trần Ngọc Liễng, Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào trại Davis. Trưởng Phái đoàn Chính phủ Cách mạng Vơ Đông Giang ra tiếp, nhận thông điệp “Sài G̣n không chống cự” từ ông Liễng. Do t́nh h́nh chiến sự, ông Vơ Đông Giang đă giữ “sứ bộ” ở lại trại Davis cho tới khi quân Giải phóng vào đến Sài G̣n. Trước đó, một người trong nhóm của Luật sư Trần Ngọc Liễng đă được tiến cử để Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm vào chức giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành: ông Triệu Quốc Mạnh, chánh Biện lư Gia Định, một “đảng viên cộng sản nằm vùng”. Trong ngày 29-4, Triệu Quốc Mạnh đă kịp thi hành triệt để lệnh của tổng thống: thả hết tù chính trị.

    Nguyễn Hữu Hạnh

    Trong khi ấy, từ Cần Thơ, Chuẩn tướng hồi hưu Nguyễn Hữu Hạnh lặng lẽ theo dơi t́nh h́nh, nhận thấy đây là cơ hội cuối cùng để mối quan hệ âm thầm với Cách mạng gần chục năm qua mang về kết quả. Ông Hạnh với ông Minh đă có hơn ba mươi năm biết nhau trên nghĩa thầy tṛ. Ngày đăng lính, ông Nguyễn Hữu Hạnh được người Pháp đưa vào một đơn vị nơi ông Dương Văn Minh là thiếu úy đại đội phó. Sau ba tháng huấn luyện với sự d́u dắt trực tiếp của ông Minh, ông Hạnh được phong trung sỹ. Trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, truy quét quân B́nh Xuyên năm 1956, ông Minh bổ nhiệm ông Hạnh giữ chức tham mưu trưởng chiến dịch.

    Ông Hạnh có một người bác, nhưng nhỏ tuổi hơn ông, ông Nguyễn Tấn Thành – thường gọi là Tám Vô Tư. Ông Nguyễn Tấn Thành “trụ” lại ở miền Nam, trong khi
    con trai của ông, Nguyễn Tấn Phát23, được đưa ra miền Bắc. Mấy lần ông Tám Vô Tư bị chính quyền Sài G̣n bắt, ông Nguyễn Hữu Hạnh đều khéo léo sử dụng quyền lực và các mối quan hệ để cứu ra. Khi ba của ông Nguyễn Hữu Hạnh mất, ông Hạnh muốn đưa về an táng ở quê lúc bấy giờ nằm trong vùng kiểm soát của quân Giải phóng, ông Tám Vô Tư lại đứng ra “dàn xếp”. “Ổng khéo lắm”, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại. Dần dần, ông Nguyễn Hữu Hạnh nhận ra bác ḿnh, ông Tám Vô Tư, đang thực hiện một kế hoạch “binh vận” do ông Bảy Lương, tức Lê Quốc Lương24, phụ trách.

    Tướng Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ra hợp tác; tuy nhiên, ông khôn khéo từ chối lời đề nghị “ra căn cứ dựng cờ sỹ quan yêu nước trong Mặt trận Giải phóng”, từ chối tham gia lực lượng thứ ba, và từ chối tiếp xúc với “anh em Cách mạng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nói với ông Tám Vô Tư: “Ông bị bắt, tôi cứu, tôi mà bị bắt không ai cứu được”. Giữa năm 1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho Nguyễn Hữu Hạnh về hưu; ông về Cần Thơ, gặp gỡ binh vận nhiều hơn nhưng vẫn không chịu “đi hẳn theo Cách mạng”. Tuy nhiên, khi thế cờ đă gần như ngă ngũ, đặc biệt, khi thấy ông thầy Dương Văn Minh nhảy ra chấp chính, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyết định nắm lấy cơ hội cuối cùng.

    Ông kể: “Sáng 29-04-1975 tôi đến gặp ông Minh tại nhà riêng, văn pḥng khi ấy vẫn c̣n ở nhà ông, số 3 Trần Quư Cáp. Trung tướng Mai Hữu Xuân, phụ trách sự vụ nói với tôi: Đại tướng bận họp, Chuẩn tướng chờ một chút. Ông Dương Văn Minh là một con người kín đáo, trầm lặng, nhưng lúc này trên gương mặt ông cũng lộ rơ vẻ suy nghĩ lo âu. Một sĩ quan tùy viên vào tŕnh có Đại sứ pháp đến. Tôi sang pḥng bên để ông Minh và ông Huyền tiếp Mérillon nhưng vẫn nghe được tiếng của Đại sứ Mérillon thông báo là Tổng trưởng Ngoại giao Pháp đă liên lạc với Hà Nội về vấn đề thương thuyết, nhưng Hà Nội trả lời ‘Rất tiếc là đă quá trễ’.

    Hai ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu tiếp tục trao đổi sau khi Mérillon ra về. Họ quyết định tuyên bố thả hết tù chính trị. Tôi hỏi ông Dương Văn Minh: ‘Thưa Đại tướng, c̣n về t́nh h́nh quân sự ra sao?’. Ông Minh nói: ‘Toa là quân nhân không đi xem c̣n hỏi ǵ?’ Là tổng tư lệnh quân đội, nhưng lúc bấy giờ ông Minh cũng không nắm nổi t́nh h́nh mà c̣n phó thác cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên phụ trách mọi việc ở Bộ Tổng tham mưu. Tôi thấy lúc này cần phải nắm lấy việc chỉ huy quân đội và tôi đoán thế nào ông Minh cũng trao việc này cho tôi. Tôi nói: ‘Tôi về hưu rồi đi coi sao được. Đại tướng có cho quyền th́ tôi mới đi’. Ngay lúc đó ông Minh phái tôi đến Bộ Tổng Tham mưu xem xét t́nh h́nh quân sự”.

    Ông Nguyễn Hữu Hạnh chưa kịp về tới nhiệm sở th́ Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên và Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đă bỏ ra nước ngoài. Trung tướng Vĩnh Lộc được cử giữ chức tổng tham mưu trưởng, Thiếu tướng Lâm Văn Phát giữ chức tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tướng Vĩnh Lộc trao cho ông Nguyễn Hữu Hạnh bộ đồ quân phục của một đại úy và cho ông cặp quân hàm chuẩn tướng. Chân ông Hạnh đi giày quân sự nhưng đầu th́ không mũ, Tướng Vĩnh Lộc nh́n, lắc đầu, chửi thề rồi nói: “Bây giờ chúng nó chạy như chuột”.

    T́nh h́nh ở Bộ Tham mưu rối ren, bế tắc. Theo Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, khi ông Minh gọi Tướng Vĩnh Lộc tới nhà, cử ông làm tổng tham mưu trưởng, th́ Tướng Vĩnh Lộc từ chối: “Đại tướng giao cho Ngô Quang Trưởng đi, sớm nay tôi c̣n thấy nó ở Tổng Tham mưu”. Quân đoàn I của Tướng Trưởng vừa bị đánh tan tác ở Huế và Đà Nẵng, Tướng Trưởng vừa mới chạy tới Sài G̣n. Dương Văn Minh không đồng ư.

    Nhân khi ông Minh rời pḥng khách, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cố thuyết phục Vĩnh Lộc chấp nhận. Tướng Vĩnh Lộc lên nắm quyền nhưng vẫn sắp xếp cho gia đ́nh chuẩn bị “di tản”. Ông Hạnh nhớ lại: “Cái chức ấy bao năm qua nhiều kẻ đă phải giành giật nhau, vậy mà bấy giờ không ai muốn nhận nữa”.

    Sài G̣n trong ṿng vây

    Theo Henry A. Kissinger, cuối tháng 4-1975, người Mỹ đă hoàn thành phần lớn việc di tản, kể cả hơn một trăm ngh́n người Việt Nam có thể bị nguy hiểm do đă cộng tác với người Mỹ. Ngày 22-4-1975, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đă “chấp thuận yêu cầu” của Tổng thống Gerald Ford, đồng ư gỡ bỏ những điều kiện hạn chế (extend parole) cho “khoảng 130,000 dân tị nạn đến từ Đông dương, trong đó có 50,000 người thuộc diện nguy cơ cao”. Đây là lần thứ hai Bộ Tư pháp Hoa Kỳ “chấp thuận một trường hợp ngoại lệ” (lần đầu, năm 1960, được dành cho “dân tị nạn Cuba”).

    Từ ngày 21-4, các máy bay, C-141 vào ban ngày và C-130 vào ban đêm, liên tục cất cánh từ Sài G̣n, đưa “khoảng 50.000 người Việt nam” ra đi. Hơn 80.000 người Việt Nam khác “với sự trợ giúp của Mỹ chạy thoát bằng các phương tiện khác”.

    Tuy nhiên, vào 4 giờ sáng ngày 29-4, khi quân Giải phóng tấn công bằng tên lửa vào sân bay Tân Sơn Nhất, 8.000 người Việt nam và 400 người Mỹ vẫn c̣n đang tập trung ở đó để chờ lên máy bay. Cuộc sơ tán đă phải tạm ngưng v́ đám đông hoảng loạn. Trong ngày hôm ấy, Sài G̣n chứng kiến những đợt rút chạy cuối cùng của phái bộ Mỹ, trực thăng lên xuống ầm ĩ trên vùng trời Tân Sơn Nhất, binh sĩ dưới đất bắn lên, tức giận.

    Ba giờ chiều ngày 29-04-1975, t́nh h́nh quân sự được báo cáo về Bộ tổng tham mưu Sài G̣n: Hướng Củ Chi, Sư đoàn 25 của Chuẩn tướng Lư Ṭng Bá thất thủ vào chiều 28-04-1975 sau khi căn cứ Đồng Dù bị mất. Ở Biên Ḥa, Trung tướng Toàn cho biết: trong ngày 28-04-1975, lúc 18 giờ 10 phút, Việt Cộng dùng xe tăng đánh chiếm chi khu Long Thành; 18 giờ 50 phút mất tỉnh lị Bà Rịa; 19 giờ 30 phút Biên Hoà bị bao vây ba mặt.

    Tối 29-04-1975, Thiếu tướng Lê Minh Đảo nói với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh ông đang bị bọc hậu và xin rút về bên này sông Đồng Nai để cố thủ. Theo ông Hạnh th́ giọng Tướng Lê Minh Đảo lạc đi. Cách đó mới hơn một tuần, Tướng Đảo tuyên bố “Cố thủ Xuân Lộc”, nhưng rồi Sư đoàn 18 đă phải rút chạy. Trong khi đó, ở Sư 22 đóng tại Tân An, Chuẩn tướng Phan Đ́nh Niệm đă bỏ trốn. Hướng Thủ Dầu Một do Sư 5 trấn giữ đă bị chọc thủng đêm 29-04-1975, liên lạc bị cắt đứt.

    Khi quân Giải phóng tràn đến Hố Nai, Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp lập tuyến pḥng thủ bên này sông Đồng Nai. Đêm 29-04-1975, nhiều đoàn xe của quân Giải phóng từ phía Hóc Môn đă tiến về Sài G̣n. Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cho biết đă lập xong kế hoạch phản công. Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, muốn kéo dài sự pḥng thủ th́ cần chỉ thị sắp xếp quân lại. Tuy nhiên, ông đă không bàn với Tướng Vĩnh Lộc việc này. Theo chỉ thị của Tổng thống Dương Văn Minh, “không được di chuyển quân để chờ ông thương thuyết”.

    Trước khi về gặp tổng thống, ông Nguyễn Hữu Hạnh tŕnh bày t́nh h́nh quân sự với Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Nguyễn Hữu Có: “Phía Tân Sơn Nhất quân của Biệt khu Thủ đô đang chạm súng với Việt Cộng. Có thể họ sẽ giữ nổi nhưng phải chịu thiệt hại nhiều về người và vật chất. Tuy nhiên phía Biên Ḥa và Thủ Dầu Một, Quân đoàn III không c̣n; chỉ huy các đơn vị của họ, Trung tướng Toàn đă bỏ chạy; Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp kẹt ở tuyến sông Đồng Nai. Hướng Thủ Dầu Một bị bỏ ngỏ. Một đoàn chiến xa của Việt Cộng đang tiến về Sài G̣n. Mặt trận phía này chúng ta không có quân xung kích mà chỉ có lực lượng pḥng thủ. Tôi e trong thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ không thể gỡ nổi”. Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh: “Nghe xong, Tướng Vĩnh Lộc biến đổi sắc mặt, vội cầm lấy điện thoại báo cáo với ông Dương Văn Minh. Sau đó Vĩnh Lộc bắt tay tôi, đó là cái bắt tay cuối cùng”. Tám giờ sáng 30-04-1975, viên tướng ḍng dơi hoàng tộc này đă cùng gia đ́nh “di tản” bằng đường thủy.

    Ông Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại: “Tôi và Tướng Nguyễn Hữu Có chạy đi t́m xe, tài xế đă bỏ đi mất. Tướng Có phải gọi điện thoại về nhà đưa chiếc xe riêng đón chúng tôi đến nhà ông Dương Văn Minh lúc 6 giờ sáng. Gặp ông Minh, Tướng Có tŕnh bày lại toàn bộ t́nh h́nh quân sự như tôi đă nói. Ông Minh trầm ngâm. Tôi nói thêm: ‘T́nh h́nh rất nguy ngập, xin Đại tướng quyết định gấp’. Ông Minh quay lại hỏi: ‘Bây giờ toa muốn ǵ?’ Tôi nói: ‘Thưa Đại tướng quyền chính trị là ở Đại tướng, riêng về quân sự th́ Đại tướng phải giải quyết, t́nh h́nh quá nguy ngập không cho phép chúng ta chần chừ nữa’. Ông Minh suy nghĩ trầm ngâm một hồi rồi nói: ‘Thôi để tôi đi bàn với ông Huyền và ông Mẫu, các toa ngồi đây đợi’. Tôi đề nghị được đi theo, ông Minh đồng ư”.

    Ông Minh và ông Hạnh tới Phủ Thủ tướng, số 7 đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn). Trên đường đi họ chứng kiến sự hốt hoảng của dân chúng, tại ṭa đại sứ Mỹ có nhiều kẻ đang hôi của. Đại sứ Mỹ Martin rời khỏi Sài G̣n vào lúc 4 giờ 58 phút sáng 30-4-1975. Tuy nhiên, chuyến trực thăng cuối cùng rời khỏi ṭa Đại sứ Mỹ, theo Ngoại trưởng Kissinger, là vào lúc 8 giờ 53 phút sáng 30-4, để sơ tán 129 lính thủy đánh bộ bảo vệ cuộc di tản ở ṭa Đại sứ.

    Ông Dương Văn Minh yêu cầu cho xe đón ông Huyền và ông Mẫu. Xe riêng của tổng thống đă đón ông Nguyễn Đ́nh Đầu trước khi qua nhà ông Nguyễn Văn Huyền. Ông Đầu thuật lại, trên đường đi đến số 7 Thống Nhất, ông Huyền có nói với ông Đầu một câu bằng tiếng Pháp “Il faut se rendre”(phải đầu hàng).

    T́nh h́nh chiến sự mỗi phút càng nguy ngập. Lúc 8 giờ sáng 30-4, ba ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu không c̣n lựa chọn nào hơn là đơn phương tuyên bố “bàn giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam”. Ông Vũ Văn Mẫu soạn lời tuyên bố mất khoảng một tiếng đồng hồ; 9 giờ ông Minh đọc vào máy ghi âm, và lúc 9 giờ 30 phút lời tuyên bố này được phát đi trên sóng. Những người như ông Vơ Văn Kiệt như trút được gánh nặng khi nghe được tuyên bố này phát trên đài Sài G̣n.

    Vào khoảnh khắc Bản Tuyên bố bàn giao chính quyền sắp được đọc vào máy ghi âm, trước 9 giờ ngày 30-04-1975, Tướng Vannuxem đến Phủ Thủ tướng gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh nhờ ông Hạnh đưa vào gặp ông Minh, khi đó đang ngồi trong pḥng khách với ông Nguyễn Văn Huyền và ông Vũ Văn Mẫu. Vannuxem là thiếu tướng người Pháp đă hồi hưu, thân Mỹ và thân cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Cao Văn Viên. Vannuxem đi ngay vào câu chuyện: “Tôi ở Paris mới đến, trước khi đi có gặp nhiều nhân vật, kể cả đại sứ Trung Cộng”. Rồi Vannuxem yêu cầu ông Minh kéo dài cuộc chiến ít nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tuyên bố bỏ
    Mỹ đi với Bắc Kinh. Theo ông Vannuxem, làm như vậy Bắc Kinh sẽ gây áp lực với Hà Nội để ngưng chiến tại miền Nam. Ông Minh không đồng ư. Khi Vannuxem về rồi, ông Dương Văn Minh nói: “Ḿnh đă lỡ đi với Mỹ, bây giờ lại bán nước cho Trung Cộng sao”.

    Theo kế hoạch th́ chính phủ của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu sẽ “ra mắt” vào lúc 10 giờ sáng 30-4-1975, nhưng khi các nhân vật của chính phủ cũ và mới đến số 7 Thống Nhất th́ họ nghe được Tuyên bố Bàn giao Chính quyền. Nhiều người trong số họ đă di chuyển sang Dinh Độc Lập không phải để tuyên thệ mà để chờ đợi.

    Trong thời gian ấy, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh mang Tuyên bố Bàn giao Chính quyền của Tống thống Dương Văn Minh và Chỉ thị buông súng của Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh sang phát trên Đài Phát thanh Sài G̣n. Khi Tướng Hạnh trở lại Phủ Thủ tướng th́ nơi đây đă hoàn toàn vắng lặng. Ông Hạnh chạy đến nhà ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quư Cáp th́ được biết ông Minh và gia đ́nh đă vào Dinh Độc Lập. Ông Hạnh đến Dinh Độc Lập. Ngoài đường lúc ấy im phắc. Ông Nguyễn Hữu Hạnh vào Dinh bằng cổng chính, cổng Dinh mở, không lính gác.

    Trước thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ trang. Tướng Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ pḥng thủ Tân Sơn Nhất đang gặp ông Minh ở tầng một Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh định về Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông Minh giữ lại. Vừa lúc, điện thoại tại pḥng làm việc của Chánh văn pḥng Tổng thống reng. Một thiếu tá xin gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Đó là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phụ trách pḥng thủ Bộ Tổng tham mưu.

    Viên thiếu tá hỏi: “Chuẩn tướng bảo chúng tôi buông súng là làm sao? Tôi không đầu hàng đâu, tôi đă bắn cháy ba xe tăng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh giải thích và khuyên: “Thiếu tá không nên để cho máu đổ ở giờ thứ 25”. Viên thiếu tá yêu cầu nói chuyện với Tổng thống, Tướng Hạnh mời ông Minh đến, nhưng câu chuyện chưa xong th́ chiếc tăng 843 xuất hiện. Ông Minh nói: “Quân Giải phóng đă vào tới Dinh rồi, thôi cúp”.

    Xe tăng 390

    Lúc đó là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Trước đó ít phút, khi Tiểu đoàn trưởng Lôi Hổ pḥng thủ Tân Sơn Nhất bỏ đi, một dân biểu thuộc lực lượng thứ ba, Trung tá Nguyễn Văn Binh, đă cẩn thận đóng cổng Dinh Độc Lập. Hành động này của Trung tá Nguyễn Văn Binh đă điều chỉnh một chi tiết trong lịch sử: Chiếc tăng 843 đi theo đường Thống Nhất từ Sở Thú tới trước rồi dừng lại trước cổng phụ trong khi xe tăng 390 tới sau, nhưng hùng dũng húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, cánh cửa cuối cùng của cuộc chiến.

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên thắng cuộc - Huy Đức
    P3


    Vào lúc 9 giờ 30 phút sáng 30-4, khi ở phía Tây Sài G̣n, ông Vơ Văn Kiệt ra lệnh “giản chính đồ đạc”, ở phía Đông, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn tăng 203, cũng nghe được tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh qua chiếc radio mà ông luôn đeo bên người. Phía sau ông, Tư lệnh Quân đoàn II, Tướng Nguyễn Hữu An, luôn theo sát đốc chiến. Họ như những người lính xung trận linh cảm được chiến thắng, càng nóng ḷng hơn khi có thể “sờ” thấy ở phía trước mục tiêu cuối cùng.

    Đêm 29-4, Tướng Nguyễn Hữu An gửi thư cho Lữ đoàn 203. Bức thư được Trung tá Bùi Tùng ghi chú “Nhận lúc 24 giờ ngày 29-4-1975” viết: “Anh Tài và Tùng. Bảy chiếc tăng và một bộ phận bộ binh đă đến cầu xa lộ Biên Ḥa gặp bộ phận đặc công của 116 giữ đă hai ngày nay. T́nh h́nh như vậy là thuận lợi do đó phải mạnh dạn tiến lên, đừng để bọn tàn binh lẻ tẻ nó cản trở. Cố gắng đưa toàn bộ đội h́nh của các anh qua bên Tây cầu đêm nay và độ 3-4 giờ sáng 30-4 là ta xốc được tới Sài G̣n chiếm xong cầu Rạch Chiếc và Tân Cảng đến cầu Sài G̣n. Tôi đă nói anh Ân cho 2d (tiểu đoàn) của E9 tràn về phía cầu xa lộ Biên Ḥa. Các anh thi hành khẩn trương và giữ liên lạc với tôi thường xuyên. Mục tiêu vào Sài G̣n là Dinh Tổng thống – Đài Phát thanh, BTL (Bộ Tư lệnh) Hải quân, ngân hàng, phủ đặc ủy trung ương t́nh báo./An”.

    Trước đó, vào lúc 10 giờ ngày 29-4-1975, ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội Sài G̣n ngừng di quân, Bộ Chính trị điện: “Gửi anh Sáu, anh Bảy, anh Tư, / Đồng điện anh Tấn,/Bộ Chính trị và Quân uỷ đang họp th́ được tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài G̣n theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí toàn bộ quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng. Công bố đặt thành phố Sài G̣n-Gia Định dưới quyền của Uỷ Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. Sẽ có điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay. Ba”25.

    Rạng sáng ngày 30-4-1975, những chiếc tăng đầu tiên của Lữ đoàn 203 chạy đến căn cứ Nước Trong, Long Khánh. Lúc bấy giờ, Thiếu úy Lê Văn Phượng, trưởng xe 390, vẫn chưa biết chiếc tăng T59 của ḿnh sẽ đi vào lịch sử. Sống chết vẫn c̣n gang tấc. Khi cho xe dừng lại định nấu cơm bên một b́a rừng cao su, pháo thủ số hai của tăng 390, Đỗ Cao Trường, bị một toán thủy quân lục chiến núp trong vườn cao su bắn bị thương. Thiếu úy Phượng ra lệnh quay ṇng pháo vào vườn cao su, bắn cho tới khi toán thủy quân lục chiến rút hết. Họ để Đỗ Cao Trường ở lại cho du kích rồi bốn anh em lên xe tiến về Sài G̣n. Tới ngă tư Hàng Xanh, những chiếc tăng phải chạy ḷng ṿng để t́m đường.

    Trước đó không lâu, trong một cánh rừng cao su, Trung tướng Lê Trọng Tấn giao nhiệm vụ cho Quân đoàn IV: “đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất”. Tướng Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn II, hỏi: “Nếu Quân đoàn II vào trước có được đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất không?”. Tướng Lê Trọng Tấn gật đầu. Ngày 24-4, cũng tại một vườn cao su ở Long Thành, Tướng Nguyễn Hữu An đặt vấn đề với Lữ đoàn 203: “Cậu Tài (Trung tá Nguyễn Tất Tài, lữ trưởng 203) tốt nghiệp ở Liên Xô, cậu Tùng tốt nghiệp Học viện Thiết giáp Trung Quốc, các cậu biết rơ Liên Xô khi kết thúc Thế chiến thứ II đă dùng một sư đoàn tăng để tấn công vào sào huyệt cuối cùng. Tại sao ḿnh có một lữ tăng, ḿnh không vào Dinh Độc Lập?”. Ngay sau đó, trong khi “mũi thọc sâu” của Quân đoàn IV là bộ binh th́ Tướng Nguyễn Hữu An đă đưa Lữ tăng lên tiên phong. Xe 390 đi trước nhưng chạy thẳng theo đường Hồng Thập Tự, thay v́ đi hướng từ Sở Thú lên như 843, nên khi vào đến Dinh Độc lập lúc 10 giờ 45 phút, đă thấy xe 843 của trung úy Bùi Quang Thận tấp qua bên trái, dừng lại trước cổng phụ. Bùi Quang Thận phất tay ra hiệu cho xe của Lê Văn Phượng tiến lên.

    Thiếu úy Lê Văn Phượng ngồi thụp xuống, đậy nắp tháp pháo và lệnh cho xe ủi vào cổng chính. Anh nghe tiếng “rầm” và tiếp đó là âm thanh bánh xích nghiền nát cánh cổng sắt. Biết cổng không có ḿn, Lê Văn Phượng mở nắp tháp pháo, đứng nhô lên nửa người, từ xa anh thấy một nữ phóng viên “Tây” ngồi trên thảm cỏ. Nhưng khi xe anh cán lên băi cỏ th́ không thấy chị phóng viên đâu nữa. Hai mươi năm sau, Lê Quang Phượng sẽ gặp lại người phụ nữ ấy, c̣n lúc bấy giờ th́ anh không có thời gian để t́m xem chị ở đâu.

    Đến thềm Dinh, anh quay lại, thấy xe 843 vẫn đậu chỗ cũ, nhưng Trung úy Bùi Quang Thận th́ đă nhảy xuống, chạy núp theo sau xe 390, tay cầm lá cờ khổ nhỏ, loại cờ được để sẵn rất nhiều ở trên mỗi xe để cứ chiếm được mục tiêu quan trọng nào lại cắm lên. Pháo thủ số 1 của xe 390 cũng cầm cờ định nhảy xuống, nhưng Lê Văn Phượng ra lệnh: “Anh Thận cầm cờ rồi, hăy nạp pháo, chuẩn bị!”. Rồi Lê Văn Phượng giữ lấy khẩu đại liên, yểm trợ. Nhưng từ lúc ấy, họ không c̣n phải bắn một phát đạn nào.

    Khi chiếc tăng 390 đỗ lại, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK nhảy xuống, chờ đại đội trưởng Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào. Cả hai chạy lên thềm Dinh trong tư thế được mô tả là sẵn sàng chiến đấu. Bùi Quang Thận nhớ lại là anh đă hơi lo khi thấy bên trong có người mặc quân phục. Có thể v́ quá căng thẳng và có thể v́ là một người lính nông dân lần đầu đứng trước một tấm kính khổng lồ, Bùi Quang Thận lao vào cửa kính mạnh đến nỗi anh ngă bật ra phía sau trong khi tay vẫn không rời lá cờ. Từ trong Dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, mời vào.

    Bùi Quang Thận đứng trước một “Nội các” có lẽ cũng bối rối không kém. Không biết phải làm ǵ hơn, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại “canh chừng”, chờ cấp chỉ huy đến c̣n ḿnh th́ làm nốt “vai tṛ lịch sử”, cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập. Chỉ huy lực lượng Pḥng vệ Phủ Tổng thống, Đại tá Chiêm, được lệnh hướng dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên nóc Dinh. Cùng đi theo hỗ trợ có sinh viên Nguyễn Hữu Thái (cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài G̣n) và Tiến sỹ Huỳnh Văn Ṭng [27].

    Khi ấy, thang bộ của Dinh chưa sử dụng được v́ ngày 8-4-1975 đă bị phi công Nguyễn Thành Trung, một người được Cách Mạng cài vào quân đội Sài G̣n, ném bom làm hỏng. Đại tá Chiêm dẫn ba người đến trước thang máy, loại phương tiện mà đối với Bùi Quang Thận c̣n lạ hơn những tấm kính khổ rộng rất nhiều. Bùi Quang Thận nhất quyết không vào; về sau anh kể lại: “Lúc đó tôi thấy thang máy giống như… cái ḥm, vào đó nhỡ nó nhốt ḿnh luôn, biết bao giờ mới ra được!”. Sau khi nghe Đại tá Chiêm giải thích, Bùi Quang Thận mới chịu dùng thang máy.

    Phải mất khá lâu, ba người đi cùng mới giúp Bùi Quang Thận hạ lá cờ ba sọc vàng xuống bởi nó khá lớn và được buộc giây chắc chắn. Bùi Quang Thận kéo lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nửa xanh nửa đỏ có sao vàng ở giữa lên, sau khi viết và kư tên vào: “11g30 ngày 30-4. Thận” [28].



    Đầu hàng

    Khi Bùi Quang Thận được Đại tá Chiêm dẫn lên nóc Dinh, Trung úy Vũ Đăng Toàn ở lại tầng hai. Trung úy Toàn viết: “Tôi dồn toàn bộ nội các Dương Văn Minh vào một chỗ. Dồn xong th́ ông Nguyễn Hữu Hạnh mời ông Dương Văn Minh ra chào. Khi ông Minh vừa ra th́ anh Phạm Xuân Thệ cùng hai trợ lư đến. Anh Thệ nói: ‘Tôi là đại úy Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó Trung đoàn 66′”.

    Borries Gallasch, phóng viên tạp chí Tấm Gương của Cộng ḥa Liên bang Đức, người châu Âu duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào thời điểm đó, tường thuật: “Tay Thệ cầm súng ngắn đă lên đạn, một khẩu K54 của Nga, Thệ rất phấn khích la lớn yêu cầu ông Minh ra đài phát thanh. Nhưng tướng Minh không muốn đi. Ông ta đề nghị rằng bài nói của ông phải được thu âm vào máy thu ở trong Dinh. Họ tranh luận việc đó. Càng lúc càng nhiều người lính Giải phóng chạy vào. Rồi họ bắt đầu t́m máy thu nhưng không có kết quả. Không có một cái máy ghi âm nào trong Dinh cả. Sự hoang mang chấm dứt khi người chỉ huy của quân Giải phóng, Chính ủy Bùi Văn Tùng, xuất hiện”29.

    Ở cửa Dinh, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 đă nghe báo cáo: “Có Tổng thống Ngụy”. Ông Tùng quá mừng: “Vớ được cả tổng thống cơ à!”. Tổng thống Dương Văn Minh thấy ông Tùng, một người cao lớn, bước vào, th́ lịch sự chào: “Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào đă lâu rồi để bàn giao chính quyền”.
    Ông Bùi Văn Tùng nói: “Các ông là người bại trận. Các ông không có ǵ để bàn giao cả mà chỉ có đầu hàng vô điều kiện”. Ông Tùng hỏi Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh: “Đường giây liên lạc từ đây qua đài thế nào?”. Ông Hạnh nói: “Hư hết rồi”. Ông Tùng quyết định cho đưa vị tổng thống bị bắt giữ đến đài phát thanh.

    Khi xe tăng 390 dừng lại, mọi người xuống hết, Trung sỹ Nguyễn Văn Tập, lái xe 390, cũng định đi vào trong Dinh, nhưng khi nhảy lên bậc thềm ngoảnh lại thấy vắng quá. Anh nghĩ, “nhỡ địch quay lại chiếm mất xe ḿnh th́ sao?”, bèn quay lại nhảy vào ghế lái ngồi tḥ đầu ra ngoài. Chỉ một lúc sau, Trung sỹ Tập thấy “Nội các Ngụy” ra, đi rất hiên ngang. Cùng đi có cả Phạm Xuân Thệ nhưng khi ấy anh Tập chỉ nhận ra thủ trưởng của ḿnh là Chính ủy Bùi Văn Tùng. Trung sỹ Tập có lẽ liên hệ đến bức ảnh của Phan Thoan và lời đề nổi tiếng của Tố Hữu: “O du kích nhỏ dương cao súng / Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”, nên kêu lên: “Thủ trưởng ơi, thủ trưởng bắt nó phải cúi đầu xuống chứ!” Trung tá Bùi Văn Tùng nói: “Việc ấy là của tớ”.

    Chiếc xe Jeep mang biển số 15770 mà Trung đoàn 66 thu được từ chiến trường Đại Lộc, Quảng Nam, do chiến sỹ Đào Ngọc Vận lái, được trưng dụng để chở Tổng thống Dương Văn Minh đi từ Dinh Độc Lập qua đài. Đào Ngọc Vận30 kể: “Tôi thấy Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn theo hai người đàn ông tiến lại chiếc xe Jeep 15770 mà tôi cầm lái. Trung đoàn phó cùng một người ngồi hàng ghế phía trên, người kia ngồi phía dưới, cùng Trung úy Phùng Bá Đam, Trung úy Nguyễn Khắc Nhu. Hai chiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng và Bàng Nguyên Thất ngồi hai bên thành xe. Măi sau này tôi mới biết người to béo, đeo kính trắng, đi giày đen ngồi ngay bên cạnh ḿnh là Tổng thống Dương Văn Minh, và vị quan chức mặc bộ complet, sơ mi trắng ngồi phía sau là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu”.

    Nhà báo Borries Gallasch viết tiếp: “Chỉ có hai chiếc xe của chúng tôi chạy giữa thành phố lúc ấy – một thành phố đă từng sôi sục mà nay sự sợ hăi bỗng nhiên được làm dịu đi – qua Ṭa đại sứ Mỹ trống hoác, đến Đài Phát thanh nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng tôi đi vào pḥng thu nhỏ trên lầu một. Những kỹ thuật viên đă lấy chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra sân. Chúng tôi ngồi bất động một lát. Ông Mẫu quạt mặt ḿnh bằng một quyển sách. Tổng thống Dương Văn Minh và Chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai chiếc ghế và tôi ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông Tùng thảo văn kiện đầu hàng trên một mảnh giấy màu xanh”31.

    Trung tá Bùi Văn Tùng nhớ lại: “Tôi với ông Dương Văn Minh ngồi cùng một băng ghế dài. Khi ấy, sau 8-9 đêm mất ngủ, tôi có cảm giác mệt ră người. Nhưng một ư nghĩ chợt thoáng qua, “ổng mà nói linh tinh th́ chết”. Mồ hôi tự nhiên toát ra như tắm, người tỉnh hẳn, tôi nói: “Ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện”. Tổng thống Dương Văn Minh nói: “Ông muốn ǵ hăy ghi ra”.

    Trung tá Bùi Văn Tùng viết ngắn gọn: “Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài G̣n, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng ḥa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố Chính quyền Sài G̣n từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”.

    Tướng Dương Văn Minh đọc xong, Trung tá Bùi Văn Tùng nói tiếp vào máy ghi âm: “Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố thành phố Sài G̣n đă được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài G̣n”32.

    Thủ tướng Vũ Văn Mẫu cũng được dành cho ít phút để phát biểu và đây, có lẽ, mới là “chính kiến” của nhóm ông: “Trong tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, tôi – giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng – kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày ḥa b́nh của dân tộc và trở lại sinh hoạt b́nh thường. Các nhân viên của các cơ quan hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của chính quyền cách mạng”33.

    Ông Vơ Văn Kiệt đến Dinh khi nơi này đă được tiếp quản bởi một lực lượng của Quân đoàn IV. Ông là vị trung ương uỷ viên Đảng Lao động Việt Nam đầu tiên đến Dinh Độc Lập. Ông Kiệt nắm thêm t́nh h́nh quân sự và nhắc nhở chỉ huy các đơn vị chiếm đóng đối xử tốt với những người trong chính phủ ông Dương Văn Minh, chờ lệnh.

    Ông Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản, là vị trí thực sự “đứng đầu” ở Thành phố lúc bấy giờ. Tuy nhiên, người công khai xuất hiện trong vai tṛ đứng đầu tại thời điểm ấy lại là Trần Văn Trà. Ngày 1-5-1975, khi đang ở Sở chỉ huy tiền phương, Thượng tướng Trần Văn Trà được ông Lê Đức Thọ và ông Phạm Hùng thông báo: “Điện anh Ba Lê Duẩn nói Bộ Chính trị quyết định cậu làm chủ tịch Uỷ Ban Quân quản Sài G̣n-Gia Định. Đi ngay cho kịp”.

    Ông Vơ Văn Kiệt cho rằng đây là một thay đổi hợp lư. Sài G̣n mới tiếp quản cần một quân nhân đồng thời phải là một quân nhân không quá xa lạ với dân chúng.
    Tướng Trà từng là trưởng Phái đoàn Quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp Quân sự Bốn bên thực thi Hiệp định Paris. Năm 1973, ông đă có một thời gian khá lâu ở Sài G̣n, và đă từng được báo chí Sài G̣n nhắc đến.

    Ngày 2-5, Tướng Trần Văn Trà mới về đến Dinh Độc Lập. Ông kể34: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, tôi cho thả tất cả những nhân vật trọng yếu của ngụy quyền mà từ hôm giải phóng Sài G̣n, bộ đội ta đă giam giữ họ tại một pḥng ở đây. Tôi chỉ gặp những người đứng đầu: Dương Văn Minh, tổng thống, Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống và Vũ Văn Mẫu, thủ tướng ngụy quyền, giải thích cho họ chính sách của cách mạng là quang minh, chính đại, độ lượng, khoan hồng. Tôi đă nhấn mạnh: Tất cả những việc làm đă qua chúng tôi xếp nó vào quá khứ, chúng tôi căn cứ vào thái độ và hành động từ ngày nay trở đi. Tôi mong họ quan niệm được sự thắng lợi vĩ đại của dân tộc vừa rồi mà tự hào rằng ḿnh cũng là người Việt Nam. Có vẻ họ tỏ ra xúc động. Dương Văn Minh đă phát biểu: Tôi vui mừng được là công dân của một nước Việt Nam độc lập”35.

    Tuẫn tiết

    Với năm cánh quân Giải phóng áp sát Sài G̣n trong sáng 30-4, không ai có thể đủ sức cưỡng lại chiến thắng của quân đội miền Bắc. Tuy nhiên, ‘Việt cộng” chỉ thực sự nắm được miền Tây vào chiều tối 30-4-1975.

    Vào thời điểm ấy, không chỉ có sỹ quan chỉ huy hai tiểu đoàn Lôi Hổ xộc vào Dinh Độc Lập chất vấn tổng thống về quyết định buông súng. Từ mấy ngày trước, các sư đoàn không quân c̣n lại của Việt Nam Cộng ḥa đă di chuyển xuống Trà Nóc và các sân bay lân cận. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng bay xuống, nhóm họp với các tướng lănh, các tỉnh trưởng của Vùng IV với sự tham gia của Phó đề đốc Hải quân Hoàng Cơ Minh, người khi ấy đang làm tư lệnh Lực lượng Thủy bộ 211.

    Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh bố trí Đoàn 232 của Tướng Lê Đức Anh ở hướng Long An nhằm pḥng ngừa khả năng lực lượng của Tướng Nguyễn Khoa Nam từ Cần Thơ lên ứng cứu là có cơ sở. Tuy nhiên, ngay trong đêm 29-4-1975, gần như tất cả lực lượng hải quân đều bỏ trốn.

    Theo Thiếu úy Dương Đức Dũng, phóng viên mặt trận của Sư 21 không quân: “Tướng Nguyễn Khoa Nam ra lệnh oanh tạc những kẻ đào ngũ nhưng anh em không quân không chấp hành”. Sáng 30-4-1975 vẫn c̣n lệnh bay. Máy bay bắt đầu trút hết bom vào đồng trống. Một số phi công nói với Thiếu úy Dũng: “Tụi tao được lệnh di tản sang U-Tapao (Thái Lan), mày có đi th́ lên”. Dũng đă ở lại. Bầu trời Cần Thơ từ lúc ấy không một phút yên tĩnh. Đầu tiên là các khu trục A1E, A1H, sau đó là A37 rồi C123. Trực thăng túa lên trời như châu chấu.

    Bảy giờ sáng ngày 30-4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân đoàn IV báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu bằng điện thoại: “Tôi bị tấn công mạnh ở ba nơi: Vĩnh B́nh, Bạc Liêu và một nơi cách sân bay Trà Nóc ba cây số. Nhưng tôi đă đẩy lùi được cuộc tấn công của Việt Cộng. Tôi sẽ giữ các vị trí c̣n lại. Các lực lượng Quân đoàn và Quân khu IV, mặc dầu có bị tấn công vài nơi, nhưng vẫn c̣n nguyên vẹn”36. Phó tướng của Nguyễn Khoa Nam khi đó là Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, người mà năm 1972 đă từng tử thủ ở An Lộc. Từ Bộ Tổng Tham mưu, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhắc Tướng Nam: “Anh cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống”.

    Năm giờ 30 phút chiều 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng rời Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV, về Bộ Chỉ huy phụ. Khi đại diện bộ đội miền Bắc vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV gặp Tướng Nguyễn Khoa Nam yêu cầu “đầu hàng”, Tướng Nam và Tướng Hưng chỉ chấp nhận “bàn giao”. Khi vị đại diện miền Bắc này qua khỏi cầu Cái Răng, Tướng Hưng liên hệ với Tướng Mạch Văn Trường và ra lệnh điều động hai chi đội thiết giáp ra án ngữ cầu Cái Răng và chiếm lại đài phát thanh rồi cho mời Mạch Văn Trường và chỉ huy các đơn vị đóng xung quanh vành đai thị xă Cần Thơ về họp. Sáu giờ 30 phút chiều, khi các vị sĩ quan về tới cổng Bộ Chỉ huy của Tướng Hưng, một nhóm nhân sĩ Cần Thơ đến gặp Tướng Hưng, xin ông đừng phản công để tránh bị “Việt Cộng pháo kích vào thị xă”.

    Tại Vĩnh Long, các lực lượng của miền Nam vẫn không thôi kháng cự. Theo ông Phạm Văn Trà37: “Chiều ngày 30-4, sau khi bộ phận trinh sát kỹ thuật của Bộ Tư lệnh tiền phương quân khu bắt được sóng đài của địch, anh Ba Trung đă sử dụng điện đài tuyên bố với viên tỉnh trưởng Vĩnh Long rằng tính mạng của y đă nằm trong tay quân Giải phóng. Nếu đầu hàng, cách mạng sẽ khoan hồng, tha thứ lỗi lầm trước đây, tính mạng, tài sản của bản thân và gia đ́nh, vợ con được bảo toàn; bằng không, y sẽ phải đền tội và vợ con, gia đ́nh cũng khó bề bảo toàn tính mạng, mặc dù Cách mạng không muốn điều đó. Sau 30 phút suy tính, vào lúc 17 giờ ngày 30-4, tỉnh trưởng Vĩnh Long chấp nhận đầu hàng và xin anh Ba Trung giữ lời hứa bảo toàn tính mạng”38.

    Chiều 30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 tự tử bằng thuốc độc39.

    Sáu giờ 45 phút chiều, hai vị tướng chỉ huy lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng ḥa ở miền Tây vẫn trao đổi điện thoại với nhau. Tướng Nam cho đến lúc ấy vẫn định phát lời kêu gọi dân chúng Cần Thơ, nhưng cả hai đều biết là quá trễ. Theo Đại tướng Văn Tiến Dũng: “Do sức ép của ta ngày càng mạnh, các Trung đoàn 31, 32, 33 ngụy cùng phần lớn các cơ quan chỉ huy sư đoàn ngụy đă tự động vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ áo lính trở về nhà. Chỉ c̣n một số sĩ quan ngụy cao cấp ở lại để xin đầu hàng ta vào lúc 20 giờ cùng ngày”40.

    Bảy giờ 30 phút tối 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng về pḥng nói lời từ biệt với thuộc cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà Phạm Thị Kim Hoàng, nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy cửa pḥng, bà Hoàng thấy Tướng Hưng đă chết với một phát súng tự bắn vào đầu. Mười một giờ đêm hôm đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho bà Hoàng chia buồn. Sáng hôm sau, khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn cuối cùng của Việt Nam Cộng ḥa, Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát.

    Trước đó, như một hành động nhận lănh trách nhiệm của ḿnh, ngày 29-4-1975, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm trách cuộc triệt thoái thất bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đă tự tử bằng một liều thuốc độc; gia đ́nh đă đưa vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa 30-4-1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, th́ tắt thở.

    Cũng trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 sau khi cho binh lính ră ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày 30-04-1975, Đại tá Đặng Sĩ Vinh cùng gia đ́nh gồm vợ và bảy người con đă tự tử bằng súng lục.

    Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn t́m đến cái chết trong những ngày sau đó.

    Huy Đức

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc: PHẦN I : MIỀN NAM / CHƯƠNG II : CẢI TẠO (Huy Đức)


    Cuốn I : Giải Phóng

    PHẦN I : MIỀN NAM

    Chương II: Cải tạo



    Những bàn bạc bên trong, quan điểm của chính quyền trong việc đối xử với “ngụy quân, ngụy quyền”, những thủ thuật được áp dụng để đưa sĩ quan vào trại cải tạo; số phận của những người tù không án, không biết ngày về và những bi kịch mà người thân của họ phải nhiều năm gánh chịu. (Những ngày đầu/ “Ngụy Quyền”/ “Ngụy Quân”/ “Đoàn tụ”/ “Phản động”/ Tù và cải tạo/ “Thăm nuôi”/ “Học tập”).



    1. Những ngày đầu

    http://hosytan.wordpress.com/2012/12...ai-tao-phan-1/



    Sau hai mươi năm chia cắt, lịch sử đă đặt nhiều gia đ́nh miền Nam vào những t́nh huống vô cùng nghiệt ngă. Có những gia đ́nh trong khi vui mừng đón đứa con “nhảy núi” trở về th́ đứa con “nguỵ” đang phấp phỏng nằm chờ trên gác; có những cán bộ cao cấp từ Hà Nội vô mới biết đứa con mà khi tập kết ḿnh để lại đă trở thành “lính nguỵ”. Dù 175 ngh́n khẩu súng các loại đă được giao nộp ngay trong mấy ngày đầu tiên sau 30-4, nhưng hơn nửa triệu sỹ quan, binh lính Việt Nam Cộng Ḥa tan ră th́ vẫn đang nhà ai nấy ở. Tất cả đều căng ra chờ đợi.



    Những ngày đầu

    Lữ đoàn 203 được lệnh rút về Long B́nh lúc 5 giờ chiều ngày 30-4, nhường công việc chiếm đóng Dinh và bảo vệ Sài G̣n cho Quân đoàn IV. Nhưng, theo ông Bùi Văn Tùng, gần một trăm chiếc tăng của ông đă không thể di chuyển, v́ giờ đó người dân Sài G̣n bắt đầu đổ ra đường. Sau những giờ phút căng thẳng nhất, như sợi dây căng hết cỡ đă đứt tung ra, mọi người Việt Nam, kể cả những người lính, cho dù ở phía nào, đều cảm thấy chiến tranh kết thúc!



    Chiến tranh kết thúc. Cái cảm giác ấy, thoạt tiên cũng im ắng như thành phố lúc vừa thôi tiếng súng, đột nhiên vỡ tung. Ḍng người ̣a ra, tràn ngập đường phố. Một vài thanh niên, học sinh mạnh dạn tiến vào vườn hoa trước Dinh Độc Lập, sờ vào những chiếc tăng T54, những chiến xa bấy giờ đă không c̣n phải bắn, đang nằm lặng lẽ.
    “Việt Cộng” trên những chiếc xe tăng vừa húc đổ cánh cổng cuối cùng, giờ đây, vừa có cái cảm giác viên măn của những người chiến thắng, vừa có cái nhẹ nhơm của những người lính đă bước qua ngưỡng của sự khốc liệt, trở nên độ lượng, hiền lành. Thái độ này của các “chú bộ đội” đă kéo đoàn người đến với những chiếc T54 đông dần lên. Họ bắt đầu t́m hiểu những khái niệm về “Việt Cộng”, nhiều người “tiến lên”, hỏi thêm về “miền Bắc”. Chưa ai thực sự biết điều ǵ sẽ xảy ra cho thành phố, cho ḿnh, nhưng vẫn thấy nhẹ nhơm và có không ít người c̣n cảm thấy mừng.



    Đêm 30-4, ở khu vực trường Petrus Kư mất điện một lúc. Một vài chiếc tăng của Quân Giải phóng được lệnh chạy ra đường để “thị uy”. Sáng 1-5, mới khoảng 7 giờ, công chức, giáo viên Petrus Kư thấy “Cách mạng” đóng trong trường, lục tục ra “tŕnh diện”. “Quân quản” lúc bấy giờ ai nấy vẫn c̣n bận đồ bà ba đen, tỏ ra rất lúng túng. Ông Kiệt giao cho ông Dương Minh Hồ, cán bộ Văn pḥng Thành ủy, đi kiếm bộ đồ “coi được” ra tiếp các thầy cô giáo.

    Ngay trong đêm 30-4, những cán bộ của Đài Phát thanh Giải Phóng từ trên R về đă tiếp quản Đài Phát thanh Sài G̣n và phát sóng những mệnh lệnh đầu tiên của Ủy ban Quân quản về trật tự, an ninh, về thu nạp vũ khí chất nổ. Đa số các “lệnh” đă được ông Hà Phú Thuận, chánh Văn pḥng Trung ương Cục, “soạn thảo” theo chỉ đạo của Đảng Uỷ Đặc biệt từ khi c̣n ở trên R.



    Không chỉ có niềm vui của những người đi từ trong rừng ra. Trong những ngày đầu, một số quan chức của Chính quyền Sài G̣n cũng nuôi hy vọng. Tiến sỹ Nguyễn Văn Hảo là một trong số đó. Trưa ngày 30-4-1975, ông Hảo có mặt ở Dinh Độc Lập v́ cho đến khi chiếc tăng 390 cán lên thềm Dinh, Chính phủ của Tổng thống Dương Văn Minh vẫn chưa kịp nhận bàn giao. Khi ấy, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đă di tản. Ông Hảo, Phó thủ tướng, trở thành người c̣n lại có cương vị cao nhất trong Chính quyền Trần Văn Hương.



    Trước đó ít hôm, ông Hảo có kêu ông Hồ Ngọc Nhuận. Khi ông Nhuận tới nhà, ông Hảo bỏ bữa cơm tối, đưa ông Nhuận lên lầu và nói: “Tôi có việc muốn nhờ ông truyền đạt đến Cách mạng. Một là về mười sáu tấn vàng, người ta nói ông Nguyễn Văn Thiệu mang đi, nhưng thật sự là tôi đă giữ lại được41. Hai là về nạn thất thoát chất xám. Tôi đă thuyết phục được một số anh em chuyên viên, trí thức ở lại, nhưng không xuể. Cách mạng phải làm ǵ đó, phải nói cái ǵ đó càng sớm càng tốt”.



    Sáng 3-5-1975, Ủy ban Quân quản ra thông báo: “Cuộc tổng tiến công nổi dậy của quân dân miền Nam ta nhằm đập tan ngụy quyền tay sai Mỹ đă giành được thắng lợi hoàn toàn. Thành phố Sài G̣n, thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đă hoàn toàn giải phóng. Để nhanh chóng ổn định trật tự an ninh trong thành phố, xây dựng trật tự cách mạng mới, củng cố và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Để nhanh chóng khôi phục và ổn định đời sống b́nh thường của các giới đồng bào trong thành phố Sài G̣n – Gia Định. Căn cứ quyết định của Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, chúng tôi xin thông báo danh sách Uỷ ban Quân Quản thành phố Sài G̣n – Gia Định”.



    Ủy ban Quân quản lúc ấy gồm chủ tịch – Thượng tướng Trần Văn Trà, và các phó chủ tịch – Vơ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Thiếu tướng Hoàng Cầm, Thiếu tướng Trần Văn Danh và ông Cao Đăng Chiếm.



    Khi chiến dịch bắt đầu, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam đă tuyên truyền về việc sẽ lập ở miền Nam một “chính phủ ba thành phần”. Tuy nhiên, khi cờ đă được cắm trên Dinh Độc Lập, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn quyết định dẹp bỏ ư tưởng này. Ngày 1-5-1975, Tố Hữu đă chuyển “lệnh” tới Trung ương Cục:

    “Gửi anh Tám, anh Bảy [Nhờ Trung ương Cục chuyển anh Tám]. Xin báo để các anh biết: Theo ư kiến anh Ba42, về Chính phủ, không c̣n vấn đề ba thành phần. Cấu tạo Chính phủ không thể có bọn tay sai Mỹ, không để cho Mỹ có chỗ dựa và phải làm cho quần chúng thấy rơ sức mạnh, thế mạnh của cách mạng; ta vừa phát động quần chúng lại vừa buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược. Chính phủ thể hiện tinh thần đó phải gồm ta và những người yêu nước, thật sự tán thành lập trường hoà b́nh độc lập, dân chủ, hoà hợp dân tộc, thống nhất Tổ quốc của ta. Bộ Chính trị chủ trương đối với những người đă đầu hàng ta như Dương Văn Minh chẳng hạn th́ không bắt, nhưng cần có cách quản lư, giám sát, ta chỉ trừng trị bọn phá hoại hiện hành… trong khi phát động phong trào quần chúng hành động cách mạng, chú ư chọn lọc, bồi dưỡng cốt cán trong quần chúng. Để có đủ cán bộ kịp tung ra phát động quần chúng, nên chọn một số cán bộ của Đảng, đoàn thể và cán bộ quân đội, huấn luyện ngắn ngày về chính sách, về phương pháp công tác, về kỷ luật. Khi tổ chức lễ mừng trong cả nước, theo ư kiến Bộ Chính trị, nên có đoàn đại biểu miền Nam ra dự mít tin ở Hà Nội và có đoàn Miền Bắc vào dự ở Sài G̣n. LÀNH43” .



    Ngày 6-5-1975, ông Vơ Văn Kiệt đi cắt tóc chuẩn bị lễ ra mắt Ủy Ban Quân quản. Người thợ cắt tóc thấy một ông đứng tuổi đi xe U-oát tới, trong khi cắt tóc có bộ đội đứng chờ, tuy không biết rơ ông là ai, nhưng cắt tóc cho ông xong, đă lễ phép cúi chào, ông trả tiền thế nào cũng không chịu lấy. Xe U-oát của ông Kiệt đi tới đâu, người dân tránh ra nhường chỗ rộng răi cho đi. Những xe khác của “Quân Giải Phóng” cũng được cư xử như vậy.



    Nhiều tuần sau đó, “các chú bộ đội” đi xe buưt không phải trả tiền và người dân bắt đầu làm quen với những chiếc xe quân sự chạy vô đường cấm. Ông Vơ Văn Kiệt nhớ lại: “Lúc đó, uy thế của cách mạng trùm lên tất cả”. Ngay cả những “tên ác ôn”, kẻ cướp giật, các băng nhóm cũng chỉ lo giữ thân hoặc xem xét, theo dơi. Nhưng cũng có những người quá hăng hái. Hầu hết đàn ông trong cư xá Ngân hàng tại An Phú, Thủ Đức nơi ông Huỳnh Bửu Sơn cư ngụ giờ đó đă di tản hoặc bị đưa đi cải tạo. Một người gác-dan, lâu nay vẫn được gọi là “thằng Vàng”, bỗng dưng xưng một cái danh rất kêu, nhảy ra nắm lấy chức Trưởng ban Quản trị Cư xá.



    Những phụ nữ c̣n lại trong Cư xá, vốn lâu nay được coi như là các mệnh phụ phu nhân, không chịu. Họ họp lại và bầu ông Huỳnh Bửu Sơn lên thay. Ông Sơn nhanh nhảu gửi lên xă báo cáo kết quả ông được bầu chọn là Trưởng Ban. Báo cáo được đóng dấu từ con dấu mà Cư xá vẫn dùng từ trước.



    Lập tức, ông Huỳnh Bửu Sơn bị triệu tập. Ông vừa ngồi xuống ghế, đă có hai bộ đội xách AK ra hỏi: “Anh biết tội ǵ không?”. “Dạ không”. “Cách mạng đă giải phóng rồi mà anh vẫn c̣n sử dụng con dấu của Ngụy. Tội anh đáng bắn. Nhưng thôi, từ nay, ông này là Trưởng Ban”. Người bộ đội nói rồi chỉ tay qua ông Vàng, h́nh như đă có mặt ở đấy từ trước.



    Câu chuyện của ông Huỳnh Bửu Sơn không phải là hy hữu. Ngày 29-6-1975, một cuộc “đấu tố” với hơn “2000 dân” đă được nhóm họp trước chợ Thanh Đa:
    “Đồng bào đă sôi nổi tố cáo những tên Lô trưởng Cư xá, điển h́nh là Lê Văn Minh, Trưởng Lô 9, nguyên là một viên chức Ngụy quyền, nay tự xưng là người của Cách mạng… Phát huy tinh thần làm chủ Cư xá, đồng bào đă yêu cầu chánh quyền loại bỏ 24 tên lô trưởng phản động do Ngụy quyền để lại” [44].



    Cuộc cướp chính quyền sớm nhất ở Sài G̣n được nói là đă diễn ra vào lúc 7 giờ sáng ngày 30-4-1975 tại phường Trần Quang Khải, quận Một. Chi bộ Đảng bí mật ở đây đă cho vây bót Tân Định, tước vũ khí của những cảnh sát vào giờ ấy chỉ mong sớm được về với gia đ́nh. Ngay sau khi Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố Bàn giao chính quyền, ở Quận 11, cờ cũng được cắm trong Dinh Quận trưởng.



    Tiến tŕnh “cướp chính quyền” và xây dựng chính quyền thường được bắt đầu như trường hợp ở phường Cây Bàng: “Khi tiếng súng của quân Giải phóng bắn tới tấp vào các căn cứ quân sự của địch, nhân dân Phường Cây Bàng đồng ḷng nổi dậy phá kềm, truy quét kẻ địch, giành quyền làm chủ về tay ḿnh và tràn ra đường đón chờ quân giải phóng. Khi các chiến sĩ ta tiến vào, đồng bào mừng reo, hoan hô nhiệt liệt. Ngay sau khi dẹp xong giặc, uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tự quản được thành lập. Các tổ chức nhân dân cách mạng cũng được khẩn trương xây dựng. Đến nay, 2-5, Phường Cây bàng đă thành lập xong Tổ An ninh, Hội Mẹ giải phóng, Tổ Thông tin Tuyên truyền, Tổ Y tế và Uỷ ban tự quản. Đang xúc tiến thành lập Tổ Cứu đói và Pḥng chống Hoả hoạn”45.



    Trước 30-4-1975, tại Sài G̣n có 735 đảng viên tại chỗ. Trung ương Cục bổ sung thêm 2.820 cán bộ đảng viên từ trong các cơ quan của R về. Nhưng đến cuối tháng 5-1975, số đảng viên đă nhanh chóng tăng lên đến 6.553 người. Những chiến sỹ cách mạng nằm vùng, những người từ trong các căn cứ kháng chiến ra và các “cán bộ 30-4”, nhanh chóng nắm giữ các vị trí then chốt của thành phố, kiểm soát Đài Phát thanh, thành lập báo Sài G̣n Giải Phóng và điều hành một hệ thống đoàn thể xuyên suốt từ Thành phố cho đến các thôn ấp.



    Không chỉ có “Cách mạng 30-4”, ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận, không ai trong số những người tiếp quản Sài G̣n năm 1975 có kiến thức về quản lư nhà nước. Mục tiêu lớn nhất đặt ra trong những ngày đầu là nhanh chóng ổn định trật tự xă hội, ổn định chủ yếu bằng các giải pháp chính trị. Riêng các cơ sở kinh tế, giáo dục, y tế… th́ dự định từ trong R là sẽ để cho các ngành, chủ yếu từ miền Bắc vào, tiếp quản những cơ sở có liên quan đến ngành ḿnh.



    2. Ngụy quyền, Ngụy quân

    http://hosytan.wordpress.com/2012/12...yen-nguy-quan/



    “Ngụy Quyền”

    Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục: “Khi tiếp quản miền Bắc, cụ Hồ cho lưu dụng hầu hết các viên chức trong bộ máy hành chánh cũ và bảo lưu mức lương cũ c̣n cao hơn cả lương chúng tôi. Cụ Hồ c̣n đảm bảo tính kế thừa nhà nước bằng cách công nhận hiệu lực tiếp tục của một số sắc luật có từ thời Pháp. Công việc xây dựng chính quyền mới, v́ thế không nặng như khi chúng tôi làm ở Sài G̣n”.



    Hệ thống hành chánh của Sài G̣n bắt đầu được thiết lập quy củ từ thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Ông Diệm vốn là một quan Thượng thư Triều Nguyễn, nhưng khi nắm quyền đă thay đổi phương thức tuyển chọn quan lại thông qua các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đ́nh, bằng việc thành lập trường Quốc Gia Hành Chánh. Trường Quốc Gia Hành Chánh đào tạo: tham sự, hệ hai năm cho các chức vụ như trưởng ban, trưởng pḥng của các ty; đốc sự, hệ bốn năm cho các chức vụ phó quận, trưởng ty; và bậc cao học cho các viên chức hành chánh cấp bộ. Cho đến năm 1960, chức tỉnh trưởng thời ông Diệm vẫn là một viên chức chính trị.



    Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ra đời, đường lối Cách mạng miền Nam được xác định là phải bằng “con đường bạo lực”, ông Diệm đáp lại bằng cách “quân sự hoá bộ máy”, bổ nhiệm các quân nhân đứng đầu cơ quan hành pháp cấp tỉnh, cấp huyện. Một viên chức từ trường Quốc Gia Hành Chánh ra, đương là quận trưởng, nếu muốn tiếp tục, phải ra Nha Trang học một khóa quân sự sáu tháng. Ngược lại, một thiếu tá tiểu đoàn trưởng có năng lực có thể được bổ nhiệm quận trưởng sau khi trải qua một lớp về bộ binh cao cấp và một lớp sáu tháng về khoa học hành chánh, và sau đó về thực tập sáu tháng dưới quyền một viên phó quận trước khi được bổ nhiệm làm quận trưởng.



    Tuy nhiên, hành chánh vẫn được coi là một vấn đề cực kỳ chuyên môn, nên dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đă có những tŕ trệ trong việc xử lư nhu cầu hành chánh cho dân, bởi các vị quận trưởng quan tâm đến quân sự hơn. Thủ tướng đă cùng với Bộ Nội vụ kư một hướng dẫn, theo đó, các tỉnh trưởng, quận trưởng phải ủy quyền bắt buộc cho cấp phó. Dưới chế độ Sài G̣n, cấp tỉnh, cấp quận chỉ có một cấp phó và người này phải là đốc sự tốt nghiệp từ Quốc Gia Hành Chánh ra.



    Ở cấp phường xă, tuy không đ̣i hỏi phải tốt nghiệp từ trường này, nhưng một xă trưởng, ấp trưởng sau khi được bầu hay một trưởng phường sau khi được bổ nhiệm đều phải đi học sáu tháng ở Trường Đào tạo Cán bộ Xă Ấp. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đánh giá cao vai tṛ của cán bộ phường xă tới mức ông thường xuyên có mặt trong lễ khai giảng và bế giảng các lớp học này và nói với các học viên: “Tôi là tổng thống trung ương, các anh là tổng thống địa phương”.



    Tuy nhiên, “Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà từ Trung ương tới địa phương” trước khi có tuyên bố của Đại tướng Dương Văn Minh đă bắt đầu “tan ră”. Khoảng gần 200 ngh́n người có quan hệ với người Mỹ hoặc đang làm việc trong bộ máy chính quyền cũ đă kịp thời “di tản” trong vài tuần lễ trước “30-4”. Số c̣n lại gần như cũng đă ư thức được t́nh thế của ḿnh, tự động “bỏ trống nhiệm sở”. Nhưng cho dù họ có ở lại, th́ với mục tiêu của cuộc chiến tranh kể từ sau Hiệp định Paris là “đập tan bộ máy của chính quyền tay sai”, việc những người chiến thắng sử dụng chuyên môn của những viên chức có tŕnh độ cao trong bộ máy Sài G̣n là điều khó xảy ra.



    Công Điện ngày 18-4-1975 của Ban Bí thư xác định đối tượng làm việc trong chính quyền cũ được lưu dụng: “Ta cần có chính sách mạnh dạn sử dụng những người thật thà phục vụ cách mạng, nhất là công nhân, lao động, cán bộ kỹ thuật, trừ những phần tử thù địch, bọn mật vụ, bọn phá hoại hiện hành…”. Theo Chỉ thị ngày 19-4-1975, cũng của Ban Bí thư, với cấp nhân viên, sau khi “được giáo dục” tại phường, xă: “a, Đối với những tên thật thà hối cải th́ tạo điều kiện cho họ tiến bộ, lập công chuộc tội; b, Đối với số cảnh sát, cứu hoả th́ có thể sử dụng, trừ bọn ác ôn phản động và ta phải đưa cán bộ cốt cán vào để quản lư giáo dục…”. Từ cấp quận phó trở lên, và hầu hết các chỉ huy cảnh sát từ cấp đội trở lên… đều thuộc diện đưa đi tập trung cải tạo dài hạn.



    Một “đồng chí” được giới thiệu là “trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền” đă từng công khai tuyên bố: “Việc học tập cải tạo đối với công chức, nhân viên nguỵ quyền sẽ phải công phu và gian khổ về tinh thần hơn so với nguỵ quân v́ công chức cao cấp nguỵ quyền là những người trực tiếp hoặc tham gia tích cực vào bộ máy kềm kẹp nhân dân. Họ được huấn luyện kỹ càng do đó, ảnh hưởng chế độ cũ về mặt nhận thức và tư tưởng khá sâu”46.



    Sau ngày “giải phóng”, các chủ trương của nhà nước cũng chủ yếu được vận hành thông qua các phong trào chính trị, cho dù có sử dụng “ngụy quyền” lưu dụng th́ kiến thức chuyên môn của họ cũng không biết để làm ǵ. Chưa kể, trong con mắt của chính quyền, theo “đồng chí Trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền”: “Họ được huấn luyện kỹ càng để tham gia tích cực vào bộ máy ḱm kẹp nhân dân”47.



    “Ngụy Quân”

    Một tuần sau, ngày 5-5-1975, Ủy Ban Quân quản Sài G̣n ban bố:

    “Mệnh lệnh số 1 về việc ra tŕnh diện, đăng kư và nộp vũ khí của sĩ quan, binh lính, cảnh sát, và nhân viên ngụy quyền: Điều I: Tất cả các sĩ quan, binh lính, cảnh sát, t́nh báo mật vụ, nhân viên ngụy quyền trong thành phố Sài G̣n và tỉnh Gia Định đều phải ra tŕnh diện và đăng kư. Thời hạn bắt đầu từ ngày 8-5-1975 cho đến ngày 31-5-1975 là ngày cuối cùng. Điều II: Cấp tướng và tá tŕnh diện và đăng kư tại số nhà 213 Đại lộ Hồng Bàng, cấp uư tŕnh diện và đăng kư tại uỷ ban nhân dân cách mạng quận, cấp hạ sĩ và binh lính tŕnh diện và đăng kư tại uỷ ban nhân dân cách mạng phường. Cảnh sát, công an t́nh báo mật vụ tŕnh diện và đăng kư tại trụ sở Ban an ninh nội chính thuộc Ủy ban Quân Qủan thành phố Sài G̣n. Nhân viên công chức làm việc tại nhiệm sở nào tŕnh diện và đăng kư tại nhiệm sở nấy. Điều III: Khi ra tŕnh diện và đăng kư nhất thiết phải mang nộp chứng minh thư, các loại giấy tờ cá nhân, tất cả vũ khí, trang bị, hồ sơ tài liệu, phương tiện, ngân quỹ… Điều IV: Người nào, nhà nào, tập thể nào, cơ sở nào có giữ vũ ,khí chất nổ và các phương tiện, khí tài thông tin đều phải tới khai và nộp tất cả. Điều V: Mệnh lệnh này phải được triệt để chấp hành đến 24 giờ ngày 31 (ba mươi mốt) tháng 5 (năm) năm 1975, những người không ra tŕnh diện cố t́nh lẩn trốn sẽ bị nghiêm trị, những người đă ra tŕnh diện, đăng kư nhưng c̣n khai gian, giấu diếm vơ khí tài liệu, phương tiện nghĩa là chưa thành thật, sau này phát hiện ra th́ xem như chưa tuân lệnh, người nào đăng nạp vũ khí, tài liệu, khí tài vật tư quư giá và phát hiện nhiều vấn đề có giá trị khác sẽ được xem xét khen thưởng xứng đáng. Tất cả những người đă ra tŕnh diện đăng kư tạm thời trước khi có lịch này đều phải làm đăng kư chánh thức lại theo mệnh lệnh này. Sài G̣n, ngày 5-5-1975/Thay mặt Ủy ban Quân quản Thành phố Sài G̣n-Gia Định/Chủ tịch/Thượng tướng TRẦN VĂN TRÀ.”



    Việc ra tŕnh diện không kéo quá dài như dự kiến. Chỉ trong ṿng năm ngày, đă có 23 viên tướng có mặt tại Sài G̣n tự động đến Trung tâm Dự bị Viện Đại học Sài G̣n: Tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3; Tướng trẻ Trần Quốc Lịch, 40 tuổi, tư lệnh Sư 5; Tướng Phan Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động Quân khu II; Tướng Hồ Trung Hậu, nguyên phó tư lệnh Sư Đoàn Dù… Nhưng chủ yếu là những viên tướng đă nghỉ hưu từ trước: Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Thiếu tướng Nguyễn Thanh Sằng, Trung tướng Lê Văn Nghiêm… Cũng có những người đă thôi chức từ rất lâu như Trung tướng Lê Văn Kim, về hưu từ năm 1964; Trung tướng Nguyễn Văn Vĩ, nguyên Tổng trưởng Quốc pḥng, về hưu từ năm 1972; Thiếu tướng Lâm Văn Phát, người từng bị Sài G̣n kết án tử h́nh vắng mặt từ năm 1965…

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc: PHẦN I : MIỀN NAM / CHƯƠNG II : CẢI TẠO (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương II: Cải tạo
    P2


    Trong thời điểm khắc nghiệt nhất của chế độ Sài G̣n, những người “ngoan cố” đă ra đi hoặc đă tuẫn tiết như Tướng Lê Văn Hưng, phó tư lệnh; Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV và một số tỉnh trưởng Miền Tây khác. Những người c̣n lại ở lại và chấp nhận những ǵ sẽ đến với ḿnh48.



    Ở Sài G̣n, 443.360 người ra tŕnh diện, trong đó có hai mươi tám viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sỹ quan cấp uư, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên t́nh báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, 9.306 người trong các đảng phái được cách mạng coi là “phản động”. Chỉ 4.162 người phải truy bắt trong đó có một viên tướng và 281 sỹ quan cấp tá.



    Gần một tháng sau sau Lệnh Tŕnh diện, ngày 10-6-1975, Uỷ Ban Quân quản ra thông cáo “Về việc Học tập Cải tạo Sỹ quan, Hạ sỹ quan, Binh lính và Nhân viên Quân đội Ngụy, T́nh báo, Cảnh sát và Ngụy quyền đă tŕnh diện đăng kư”. Theo đó: Tất cả hạ sỹ quan binh lính và nhân viên quân đội Nguỵ thuộc các quân binh chủng tại Sài G̣n-Gia Định, t́nh báo cảnh sát và nhân viên Nguỵ quyền quận, phường, khóm, xă, ấp đă tŕnh diện đăng kư phải đi học tập cải tạo trong ba ngày kể từ ngày 11-6-1975 đến ngày 13-6-1975. Nhân viên Nguỵ quyền từ trưởng phó pḥng trở xuống thuộc các phủ, bộ, vụ, viện, nha, sở, ty… đă đăng kư đi học tập từ ngày 18 đến ngày 20-6-1975. Thời gian học tập liên tục từ 7 giờ đến 16 giờ [giờ Đông Dương] trưa nghỉ một giờ. Người đi học tự mang thức ăn trưa và chiều, sau khi học, về nhà nghỉ. Lệnh học tập này phải được tuyệt đối chấp hành ai không đi học tập cải tạo đúng thời hạn coi như phạm pháp.



    Cũng trong ngày hôm ấy, lệnh học tập cải tạo được thông báo đến các sỹ quan theo đó, “sỹ quan quân đội Nguỵ, cảnh sát, t́nh báo biệt phái từ thiếu uư đến đại uư” được hướng dẫn: “Phải mang giấy bút, quần áo, mùng màn, các vật dụng cá nhân, lương thực, thực phẩm [bằng tiền hoặc hiện vật] đủ dùng trong mười ngày kể từ ngày đến tập trung”. “Sỹ quan cấp tướng, tá”, được hướng dẫn mang theo “thực phẩm, lương thực đủ dùng trong một tháng”.

    Từ ngày 11-6, tất cả hạ sỹ quan binh lính đă đến các địa điểm trong Thành phố học tập và họ cảm thấy yên tâm khi thời gian học tập chỉ có ba ngày, đúng như thông báo và cách tiến hành th́ mang tính “học tập” nhiều hơn là “cải tạo”. Báo chí bắt đầu được sử dụng để trấn an những sỹ quan c̣n có chút băn khoăn lo lắng trong ḷng.

    Bài xă luận “Tiếp tục cải tạo để trở thành người công dân chân chính” đăng trên báo Sài G̣n Giải Phóng ngày 17-6-1975 viết: “Đợt học tập cải tạo của binh lính, hạ sỹ quan nguỵ quân và nhân viên nguỵ quyền mở ra đă được mấy ngày. Trong các thu hoạch của các học viên, có một điểm chung làm mọi người chú ư: hầu hết đều phát biểu thừa nhận ḿnh trước kia dù làm bất cứ việc ǵ trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền, đều là những người có tội với nhân dân, với cách mạng. Họ đều hứa sẽ tự cải tạo ḿnh thành những con người tốt. Cuộc học tập này đă làm cho phần lớn binh sỹ nguỵ biết phân biệt ai là địch, ai là ta. Sự phân biệt này rất quan trọng. So với trước khi học đây là một bước tiến bộ đầu tiên của binh lính nguỵ quân và nhân viên nguỵ quyền. Nhưng cũng chỉ là một bước tiến đầu tiên mà thôi. Phân biệt được địch, ta, hứa phấn đấu để trở thành người tốt, mới chỉ là tiến bộ về mặt nhận thức, mới chỉ là sự bày tỏ thái độ. Họ có thật sự tiến bộ hay không? Thái độ của họ có thành thật hay không? Hay giả vờ tiến bộ, giả vờ hứa hẹn cốt cho qua cửa ải này, rồi trà trộn vào cộng đồng dân tộc với những tư tưởng thù địch với dân tộc? Đối với những con người đă từng bị giặc Mỹ nhồi nhét những tư tưởng xấu xa, ư thức chống nhân dân, chống cách mạng trong suốt hai mươi năm qua th́ làm sao họ có thể gột rửa hết trong ba ngày học tập? V́ vậy, cách mạng tạo cho họ điều kiện để chứng minh sự tiến bộ của ḿnh bằng hành động. Nhân dân ta đă có kinh nghiệm: đánh giá một con người phải căn cứ trên hành động của họ. Ta giáo dục họ những tư tưởng đúng, là cốt để họ làm đúng chứ không chỉ để nói đúng mà thôi”.



    Một bài báo khác dẫn lời anh Trần Văn Lành, một trung sỹ quân nhu, nói: “Trước khi đi học tập, tôi đă tưởng là sẽ bị ngược đăi, bị hạ nhục và có thể bị đánh đập nữa”49. Nhưng, “điều đó đă không xảy ra” và sau học tập, anh Lành đă được cấp “Giấy công nhận hoàn thành học tập cải tạo” – tờ giấy có giá trị công nhận những người “lính Ngụy” bắt đầu được “trở lại làm người” trong chế độ mới. Một người khác, được giới thiệu là “Binh nhất Lê Công Đắc”, th́ cho rằng: “Qua cuộc học tập này, chính quyền cách mạng đă dắt chúng tôi ra khỏi nơi tối tăm, đưa chúng tôi về với nẻo chính nghĩa”50. Những phát biểu này được các sỹ quan theo dơi sát và khi thấy sau “ba ngày học tập” binh lính được trở về nhà, thấy “cách mạng đă làm những ǵ cách mạng nói”, các sỹ quan đă yên tâm hơn.



    Không ai biết rằng, từ ngày 18-4-1975, Chỉ thị 218/CT-TW của Ban Bí thư đă quy định: “Đối với sỹ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ quản lư, giáo dục và lao động; sau này tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại và sẽ có chính sách giải quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể cả lính và sỹ quan] mà ta cần th́ có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải cảnh giác và phải quản lư chặt chẽ, sau này tuỳ theo yêu cầu của ta và tuỳ theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành ngoài quân đội. Đối với những phần tử ác ôn, t́nh báo an ninh quân đội, sỹ quan tâm lư, b́nh định chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân đội, th́ bất kể là lính, hạ sỹ quan hay sỹ quan đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và quản lư chặt chẽ”51.



    Ở nhiều địa phương, một số “tên ác ôn đầu sỏ” đă được “xử lư” ngay và chỉ vài ngày sau 30-4, các sỹ quan gần như đă được đưa đi cải tạo. Tuy nhiên, Sài G̣n, nơi tập trung gần nửa triệu sỹ quan và binh lính chế độ cũ, nơi tập trung sự chú ư của dư luận trong và ngoài nước, nên mọi quyết định đều được Trung ương Cục và Đảng ủy Đặc biệt bàn bạc lên kế hoạch.



    Ngay trong pḥng làm việc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trung ương Cục đă bàn cách đưa các sỹ quan của ông đi “cải tạo lâu dài”. Kế hoạch được gọi là Chiến dịch X-1. Ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận: Việc công bố ba mức thời gian học tập – hạ sỹ quan binh lính, ba ngày; cấp úy, mười ngày; tướng, tá, một tháng – là có ư để cho các đội tượng ngầm hiểu rằng, thời gian học tập tối đa của các sỹ quan chỉ là một tháng.



    Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, năm ấy là một sỹ quan biệt phái với quân hàm đại úy, thuộc diện “học tập mười ngày” viết: “Hầu hết đều b́nh thản đến cổng, xin vào. Có người cưng con gái đi theo đỡ đần con rể. Có người thuộc diện “ba ngày” tiễn đưa bạn, ngồi quán nhậu ngà ngà cũng theo bạn vào cổng cho vui. Có người giải ngũ nằn ń xin ‘đi học để có cái giấy về dễ làm ăn’. Nhưng, qua con ngựa sắt là ḍng sông không trở lại”52.



    Nơi tập trung của ông Tạ Chí Đại Trường là một trường học, ông viết: “Sáng 23- 6-1975, tôi đi ṿng giă từ phố phường rồi cầm khúc bánh ḿ đến công trường Taberd. Mười giờ 30 sáng. Hai viên sỹ quan cầm súng lặng lẽ chỉ lối vào. Ngoài đường vắng, cổng trường kín chỉ chừa chỗ lách, không thể biết bên trong có ǵ”53. Những “sỹ quan cấp úy” ấy đă b́nh thản đến guichet (quầy) nộp “tiền ăn mười ngày”, lấy biên lai… cho đến khi vào hành lang, cán bộ tới ra lệnh bỏ đồ kim khí ra, mới thấy có “cái ǵ nặng nề lảng vảng”, rồi khi “trời càng về khuya, mưa tầm tă” th́ “bắt đầu mới rùng ḿnh”.



    Đại úy Tạ Chí Đại Trường viết: “Tôi mang mùng giăng trên tầng gác hội trường nhưng không ngủ được. Từ trên gác nh́n ra bóng tối nhiều hơn ánh sáng… Ánh đèn pha trải dài trên sân nước. Một vài người lính đi lại mang B40 lắp đầu đạn khiến cái bóng càng dài ra”54. Tối 25-6, Đại úy Trường cùng các chiến hữu nhận được lệnh di chuyển, “Có người dẫn ra đường. Vắng ngắt. Xe đậu dài ngút”. Rồi, thay v́ “học tập mười ngày”, ông thầy dạy sử Tạ Chí Đại Trường đă phải trải qua các trại từ hôm ấy cho đến tháng 6-1981.



    Mười ngày, một tháng qua nhanh. Không ai nhận được bất cứ tin tức ǵ liên quan đến những người thân bị đưa đi học tập. Rồi đột nhiên, một sỹ quan được tha về, người đó là Cựu Tổng trưởng Quốc pḥng, tướng Nguyễn Văn Vỹ.

    Vừa ra khỏi trại, Tướng Vỹ phát biểu: “Chúng tôi ăn c̣n ngon hơn bộ đội. Tôi mong những người có thân nhân đi học tập cải tạo hăy yên ḷng và tin tưởng Cách mạng, đừng tin ở những lời đồn vô căn cứ”55. Tướng Nguyễn Văn Vỹ là người mà ngay hôm đầu ra tŕnh diện đă phát biểu: “Tôi hiểu rơ quân đội trong này lắm, tệ lắm, xấu lắm; và mấy ngày hôm nay thấy rơ bộ đội Cách mạng rất kỷ luật, chững chạc, đàng hoàng. Anh em vào nhà tôi ở cầu Thị Nghè không hề bị mất mát ǵ hết. Cách mạng vào yên ổn, thanh b́nh ngay, ai cũng yên tâm và sung sướng”56.

    Ở thời điểm Tướng Vỹ phát ngôn trên báo, dân chúng không cần phải nghe tin đồn, chồng con họ bặt vô âm tín đă hơn ba tháng cho dù “Cách mạng nói” sĩ quan cấp úy chỉ đi học tập “mười ngày”, cấp tá chỉ đi “một tháng”. Tuy nhiên, đấy cũng chưa phải là thời điểm mà những người ở nhà hay ở bên trong hàng rào dây kẽm gai tuyệt vọng. Chính quyền biết điều đó và Tướng Vỹ được tha để nói những lời có giá trị trấn an. Đồng thời, “các sỹ quan và nhân viên ngụy quyền” bắt đầu được phép và được động viên viết thư về nhà.



    Đầu tháng Bảy, báo Giải Phóng, tờ báo trong R của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, cho đăng lá thư của ông Trần Văn Tức “nguyên là đại úy cảnh sát ở Côn Sơn”, gửi vợ là bà “Nguyễn Bích Thủy, ở số 52-54 Nguyễn Khắc, Sài G̣n 2”. Khi cho đăng lá thư, tờ Giải Phóng nói rơ là “để bạn đọc hiểu thêm cuộc sống hiện nay của các sĩ quan (trong quân đội ngụy trước đây) đang học tập cải tạo”57. Thông điệp mà Chính quyền muốn gửi qua bức thư này được lồng vào một cách vụng về: “À, ở thư trước anh quên dặn em là đừng tin lời đồn nhảm của bọn phản động của bọn ngụy tuyên truyền làm cho em và ba má ở nhà hoang mang lo sợ. Nếu người nào nói xuyên tạc đó là bọn lưu manh thừa dịp để làm tiền hoặc bọn ngụy phản cách mạng, em nên đến chánh quyền cách mạng tố cáo họ. Anh cố gắng học tập cải tạo tốt để chánh phủ cách mạng khoan hồng cho những đứa con lạc lối được thành người công dân chân chính và sớm về đoàn tụ với gia đ́nh tăng gia sản xuất”58. Hơn một tháng sau, tờ Tin Sáng có bài phỏng vấn bà “LQL”, người vừa trở lại Sài G̣n sau chuyến thăm chồng là “Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Tiểu Đoàn 7, Thủy Quân Lục Chiến Ngụy”. Tờ Tin Sáng không nói rơ chị L thăm chồng ở trại nào và chồng chị là ai, chỉ giới thiệu: “Thiếu tá và cả Tiểu đoàn 7 của ông đă bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đă cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng ngày 27-3 vừa qua”. Câu chuyện ở trại cải tạo được tờ Tin Sáng dẫn dắt cho thấy không khí trong các trại cải tạo từa tựa như một trại hè59. Bài phỏng vấn kết thúc bằng lời dặn ḍ của người chồng: “Em yên trí về lo làm ăn, ở đây em khỏi lo hai thứ rượu và gái, đă làm hai đứa thường mất hạnh phúc như trước kia. Cuộc sống ở đây rất điều ḥa và lành mạnh như em đă thấy, chắc chắn bọn anh sẽ khá hơn trước”.



    Người phỏng vấn, phóng viên Phan Bảo An, sử dụng những ngôn từ như “tên tướng ngụy…”, khiến người đọc có cảm giác nó được viết bởi một cán bộ tuyên huấn từ “R” về hoặc từ Bắc vào. Nhưng Phan Bảo An là bút danh của ông Phan Xuân Huy, một cựu dân biểu Sài G̣n. Ông Phan Xuân Huy nói rằng cuộc phỏng vấn ông thực hiện được là t́nh cờ chứ không phải do Chính quyền sắp xếp60; tuy nhiên, về sau ông mới phát hiện ra “người vợ” là con của một gia đ́nh Cách mạng.



    Cho đến tháng 9-1975, chỉ những người có nhân thân rất đặc biệt mới có thể vào trại thăm thân nhân. Lá thư của “ông Trần Văn Tức gửi vợ là bà Nguyễn Bích Thủy” trùng hợp với thời gian mà ở các trại cải tạo, “ngụy quân, ngụy quyền” được yêu cầu viết thư về nhà. Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, thời gian này đang cải tạo ở Trảng Lớn, Tây Ninh, kể: “Thư hàng tháng được coi như là một ân huệ của Nhà nước ban cho người có tội phải cải tạo,‘dựa trên ư thức truyền thống thông cảm với t́nh gia đ́nh đậm đà của người dân Việt Nam’… Thư gửi được quản giáo kiểm duyệt. Nội dung thư cứ phải nói ‘học tập tốt, lao động tốt’ và phải động viên gia đ́nh”61. “Đoàn tụ” Có lẽ không mấy gia đ́nh ở miền Nam không đồng thời có người thân vừa ở phía bên này vừa ở phía bên kia. Và có lẽ không có ở đâu, ư thức hệ lại chia cách t́nh thân đến thế. Ông Tư Bôn, giám đốc Việt Nam Tổng Phát hành, có cậu ruột là một cán bộ cộng sản nổi tiếng, ông Mai Văn Bộ, nhưng vẫn không thoát ṿng lao lư. Ở đề lao Gia Định, ông Bộ có vào thăm nhưng người cháu đang bị liệt vẫn tiếp tục bị giam cầm.



    Nhà văn Doăn Quốc Sĩ là con rể của nhà thơ Tú Mỡ – người có tác phẩm được miền Bắc đưa vào sách giáo khoa phổ thông – nhưng vẫn phải đi tù. Doăn Quốc Sĩ bị tù tổng cộng mười bốn năm, trong thời gian đó ông không được gặp mặt bố mẹ đang sống ở Hà Nội, thậm chí không được gặp cả người anh ruột Doăn Nho là một nhạc sĩ con cưng chế độ.



    Trung tá Phan Lạc Phúc62 cũng có cùng hoàn cảnh như nhà văn Doăn Quốc Sĩ. Ông Phúc có một người em ruột là sĩ quan Việt Nam Cộng ḥa, năm 1962 tham gia đảo chính bất thành, đi theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Nhưng sau năm 1975, ông Phan Lạc Phúc vẫn phải chịu hơn mười năm cải tạo.



    Đại úy Dù Phan Nhật Nam63 có cha là ông Phan Văn Tŕnh, vốn là một sỹ quan t́nh báo được Việt Minh đánh vào Sở Mật thám Liên bang Đông Pháp. Ngày 2-9-1950, ông Tŕnh đă lập công bằng cách lấy hồ sơ của Sở Mật thám mang ra Việt Bắc. Nhưng, như số phận của nhiều nhà t́nh báo khác, ông Phan Văn Tŕnh đă không được tin dùng. Ông chỉ là một cán bộ nhỏ công tác ở Hải Pḥng và sau năm 1975 về Nam chỉ nhận được chức phó chủ tịch một phường ở Sài G̣n. Đại úy Phan Nhật Nam biết trước là không thể nhờ vả được ǵ vào bố ḿnh. Bởi chính ông, năm 1973, đă từng gây khó khăn cho bố64.



    Theo ông Phan Nhật Nam: “Năm 1981, ở Mỹ, khi Mặt trận Hoàng Cơ Minh trao giải cho cuốn sách của tôi, Tù binh và Ḥa b́nh, ở trại Lam Sơn, Thanh Hóa, từ ngày 7-9-1981, tôi bắt đầu bị cùm trong pḥng biệt giam. Trong hoàn cảnh đó, ngày 8-5-1985, khi ba tôi lên thăm, ông vất vả ra Hà Nội chờ xin giấy thăm nuôi tôi ở Cục Quản lư trại giam, thay v́ có thể xin ở trại như các tù nhân khác. Cuộc thăm nuôi lại chỉ được diễn ra trong ṿng mười lăm phút. Cho dù đó là lần đầu tiên gặp nhau sau hơn ba mươi năm, tôi vẫn nói với ông: Ba vất vả quá, thôi đừng thăm nuôi nữa, đợi khi ra tù, con về”65.



    Cũng có không ít quan chức Cách mạng thay v́ bảo lănh, đă vận động ngay chính những người trong gia đ́nh ḿnh đi “học tập”. Có người muốn chứng minh với Đảng sự “chí công vô tư”. Có người tin là cần thiết đối với người thân của họ.



    Thiếu úy Việt Nam Cộng Ḥa Lưu Đ́nh Triều có ba mẹ là cán bộ cao cấp của Cách mạng. Năm 1954, lúc Lưu Đ́nh Triều một tuổi, chị gái Triều ba tuổi, anh đă được ba mẹ để lại cho bà ngoại để đi tập kết. Trong suốt hơn hai mươi năm, hai chị em Lưu Đ́nh Triều đă lớn lên như những đứa trẻ mồ côi trong khi ba mẹ ḿnh sống ở Hà Nội trong một phần căn biệt thự trên đường Điện Biên Phủ với sổ mua hàng “Tôn Đản”. Ba anh là ông Lưu Quư Kỳ, vụ trưởng Báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương kiêm tổng thư kư Hội Nhà báo. C̣n anh, năm 1972, khi Chính quyền Sài G̣n tạm đóng cửa các trường đại học và hạ bớt tuổi hoăn quân dịch của sinh viên, như nhiều sinh viên khác, Lưu Đ́nh Triều bị động viên vào lính.



    Năm 1975, ông Lưu Quư Kỳ trở về, Lưu Đ́nh Triều nhớ lại: “Bao lần tôi đă nằm tưởng tượng ra cảnh hội ngộ này và nghĩ rằng lúc ấy tôi sẽ hét vang cái tiếng gọi mà tôi đă thèm khát hàng chục năm trời: Ba ơi! Má ơi!”. Nhưng, ngay trong ngày gặp lại, Lưu Đ́nh Triều đă cảm nhận được một “hố sâu thực sự”.



    Lúc đó, do t́nh h́nh đi lại khó khăn, ông Lưu Quư Kỳ về Nam trước, vợ và con ông, những người sinh ra ở Hà Nội, đă gửi gắm t́nh cảm vào chiếc máy ghi âm mà ông Kỳ mang theo. Cô em gái Triều sau khi thăm hỏi anh chị, hồn nhiên hỏi: “Từ hôm giải phóng tới giờ anh chị biết bài hát nào mới chưa. Em và con Thảo, con chú Tân, hay hát lắm. Để bọn em hát cho anh chị nghe nhé”. Rồi hai cô gái Hà Nội cất giọng lanh lảnh hát trong máy ghi âm: Sài G̣n đó, quê ta ơi / Trong biển lửa vẫn ngời ngời / Ta đi như sóng căm hờn dâng trào / Xô lên trên xác quân thù hung bạo / Giành một mùa xuân tươi sáng khắp miền Nam…



    Lưu Đ́nh Triều viết: “Khi nghe tới đó, tim tôi như thắt lại. Một ‘quân thù’ đang đứng cạnh ba đây. Ba có biết không? Có căm hờn nó không? Từ giờ phút đó, niềm vui hội ngộ trong tôi giảm hẳn. Chỉ có nỗi lo âu, thắc thỏm là mới dâng trào”.



    Vài tháng sau, Lưu Đ́nh Triều vẫn phải đi cải tạo. Trong thời gian ở trại, Lưu Đ́nh Triều kể: “Ban ngày chúng tôi phải học lư luận, ban đêm học hát những bài như Băo Nổi Lên Rồi, Rầm Rập bước Chân Ta Đi Trên Đường Phố Sài G̣n… Sau khi được “lên lớp” về Truyền thống Chống Ngoại xâm, Đường lối Sáng suốt của Đảng Ta, Cuộc Chiến tranh Chính nghĩa, Chính sách Khoan hồng của Chính phủ Cách mạng…, các trại viên phải tập trung thảo luận, theo hướng: phải phân tích được âm mưu của Mỹ – Ngụy; phải nhận ra Ngụy quyền không chính nghĩa, chỉ có Cách mạng mới chính nghĩa. Học xong lại phải “soi rọi bản thân”, kể ra những tội lỗi của ḿnh, mỗi người phải nghĩ cho ra một điều phi nghĩa của Quân đội Việt Nam Cộng ḥa”.



    Lưu Đ́nh Triều nói: “Tôi dẫn chuyện lính Sư 7 hành quân bắt gà, bắt heo của dân. Có người là lính tài vụ, cả đời chỉ đi phát lương, với mong muốn được Chính phủ khoan hồng, đă nhận phát lương cũng coi như tạo điều kiện cho lính đi càn quấy. Có người than, tao nghĩ không ra tội, chúng mày ạ”.



    Từ tháng thứ ba, Triều kể: “Mỗi tháng, trại viên được thăm nuôi một lần. Trong số những người thăm nuôi có người quê Biên Ḥa, tôi nhắn chị tôi đi thăm. Hóa ra, khi ấy chị tôi đang đi Hà Nội. Khi chị tôi về, lên trại đúng lúc trại cấm thăm nuôi v́ một sự cố do trại viên gây ra. Tôi nh́n thấy chị tôi, khoát tay bảo về nhưng chị tôi cứ đứng bên kia đường không chịu. Một người quản giáo tốt bụng tới vỗ vai, nói: ‘Đi theo tôi’. Đi ra, vệ binh chặn lại; nhưng người quản giáo can thiệp. Hai chị em nh́n nhau khóc, khiến người quản giáo cũng khóc”.



    Chỉ huy trại khi ấy cũng biết Lưu Đ́nh Triều là con cán bộ cao cấp nên chủ động gửi thư cho ông Lưu Quư Kỳ, nói: “Chúng tôi biết anh, nếu được, anh lên trại chúng ta nói chuyện về cháu”. Ông Lưu Quư Kỳ có lên nhưng thay v́ gặp con và bảo lănh, ông chỉ viết thư khuyên “con cố gắng học tập tốt”. Lưu Đ́nh Triều nhớ lại: “Tôi vừa đọc thư ba tôi vừa xé và vừa cay đắng khóc”.



    Có những quan chức Cách mạng không bảo lănh cho con cháu của ḿnh bởi họ tin rằng những đứa con, đứa cháu lầm đường của họ cần có thời gian cải tạo. Có những quan chức cẩn trọng biết rằng tờ bảo lănh đôi khi sẽ là một trong những cái cớ để khi cần, các đồng chí của ḿnh đem ra “xử lư”. Ông Trần Quốc Hương nguyên là một nhà chỉ huy t́nh báo, từng là cấp trên của “ông cố vấn” Vũ Ngọc Nhạ và “trưởng văn pḥng báo Time” Phạm Xuân Ẩn. Năm 1950, ông Hương “đánh” từ Hà Nội vào Nam một cán bộ t́nh báo có tên là Từ Câu. V́ hoạt động trong ḷng chế độ

    Sài G̣n nên con cái của ông Từ Câu cũng phải đi lính như những gia đ́nh khác. Sau1975, họ cũng phải đi “học tập”. Khi ông Từ Câu mất, các con ông – thiếu úy Từ Dũng và thiếu úy Từ Tuấn – đang bị cải tạo ở Minh Hải, gia đ́nh có đơn xin cho con về để tang cha. Ông Mười Hương phê đơn, chuyển Giám đốc Công an, xin cho họ “được về để tang rồi vào trại lại”. Trước Đại hội V, ông Trần Quốc Hương66 bị tố cáo “bốn vấn đề”, trong đó, “một đồng chí trong tiểu ban bảo vệ Đảng” tố ông đă can thiệp cho “hai thiếu úy Ngụy ra khỏi trại giam”.



    3. Phản động

    http://hosytan.wordpress.com/2012/12...n-3-phan-dong/



    Một diễn biến khác, xuất hiện ngay từ những ngày Trung ương Cục nhóm họp để triển khai “Chiến dịch X-1, X-2”, được quan tâm đặc biệt v́ liên quan đến an ninh chính trị. Ngày 3-9-1975, Trung ương Cục được báo cáo:
    “Bọn chánh quyền cơ sở đi tập trung rất ít. Bọn Tuyên úy cũng đi rất ít. Cảnh sát đặc biệt, dự kiến đi 1.500, nhưng chúng tập trung đến 2.460 tên. Nhưng, dự kiến trên 1.000 tuyên úy chỉ đi 2 tên; dự kiến trên 150 tên chiến tranh tâm lư, đi 46 tên; dự kiến 500 cảnh sát đă chiến chỉ đi 190 tên; Quân cảnh đi 140 tên; T́nh báo dự kiến 1000 chỉ đi 142 tên; Biệt kích 1000 chỉ đi 64 tên; Chiêu hồi dự kiến 300 chỉ đi 130 tên; B́nh Định dự kiến 1500 chỉ đi 55 tên; Dự kiến đợt I, (đối tượng này) là 10.200 nhưng chỉ đi 4.800 tên; c̣n lại tên 5000; ta tổ chức bắt trên 400 tên; bọn cơ sở, t́nh báo, quân báo tại chỗ dự kiến 3 vạn mới làm được 8.290 tên. Theo báo cáo th́ việc tổ chức học tập là tốt. Hội nghị chủ trương: Đối với bọn tuyên úy công giáo, phật giáo và tin lành giáo, Ban Mặt trận Thành mới tới nói chuyện động viên khuyến khích đi học; các tôn giáo trở về phải có ư kiến với từng người để họ đi học. Sau cuộc nói chuyện sẽ tổ chức bắt nếu họ không chịu đi tŕnh diện. Đối với biệt kích, gia hạn đăng kư một thời gian; đề cao bọn ra tŕnh diện; kêu gọi gia đ́nh động viên con em họ đi học sau đó tổ chức truy bắt” [67].



    Chính sách cải tạo cũng đă đi vào lịch sử Ṭa thánh Vatican từ ngày 15-8-1975, khi Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận được mời tới Dinh Độc Lập, tại đây ông bị bắt giữ và trong ngày hôm ấy được di lư ra trại giam Cây Vông, Phú Khánh.



    Việc Ṭa Thánh bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận, người gọi ông Ngô Đ́nh Diệm là cậu ruột, làm giám mục phó Tổng Giáo phận Sài G̣n vào ngày 25-4-1975 (chỉ chưa đầy một tuần trước khi “giải phóng”) đă làm cho Cách mạng lo lắng. Bản thân nội bộ công giáo cũng có những hoạt động được cho là “mờ ám”; một số linh mục được coi là “cấp tiến” đă ám chỉ các tín hữu của Đức Cha Thuận là “phản động”. Ngày 13-5-1975, một nhóm sinh viên công giáo đă đột nhập vào Ṭa Tổng Giám mục đ̣i Đức Cha Thuận phải từ chức. Ngày hôm sau, 14-5, chính họ lại cũng đột nhập vào Ṭa Khâm xua đuổi Đức Khâm sứ Henri Lemaitre.



    Chính quyền không đứng ngoài những hoạt động “cấp tiến” này, nhưng Chính quyền cũng đă hoang mang khi những hành động quá khích như vậy tác động trở lại. Ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận là trong buổi chiều bắt Đức Cha Thuận, Chính quyền đă triệu tập tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ tới ṭa nhà Quốc hội Sài G̣n để nghe “nói chuyện”, nhằm tránh những phản ứng khiến cho t́nh h́nh phức tạp thêm. Người dân Sài G̣n quan sát những diễn biến ấy trong nỗi lo sợ rất rơ ràng, nhưng thái độ của mỗi người th́ một khác. Nhà báo Đoàn Kế Tường kể: “Sáng 29- 4-1975, tôi và một người bạn gặp nhau trên cầu Sài G̣n, anh hỏi: ‘Đi không?’. Tôi nói không lưỡng lự: ‘Không. Tôi c̣n mẹ già ở Quảng Trị’. Anh chia tay tôi xuống Tân Cảng, một chiếc tàu hải quân đang đợi chúng tôi ở đó. Nhưng tôi không thể ngờ được là mọi thứ sau 30-4 nó lại đảo lộn lên như thế”.



    Đoàn Kế Tường sinh năm 1947 tại làng Đông Dương, xă Hải Dương, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. V́ cha từng đi lính Tây nên năm 1960 khi mới mười ba tuổi, ông được đưa vào học trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, được huấn luyện trở thành lính Biệt kích. Từ năm 1965 được đưa lên tác chiến ở vùng Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long. Là lính trận thật sự, hai lần bị thương, nhưng chàng trai trẻ mười tám tuổi vẫn có chút máu Quảng Trị, làm thơ từ trong rừng sâu gửi về các tờ báo ở Sài G̣n rồi được kết nạp vào Hội Văn – Nghệ – Sỹ Quân đội.



    Năm 1969, nhân Đại hội Văn – Nghệ – Sỹ Quân đội toàn quốc, Đoàn Kế Tường nhờ Chu Tử [68] xin cho về lại Sài G̣n làm báo. Chu Tử, một nhà báo quen biết nhiều nhân vật có thế lực, đă nhờ Trung tướng Lê Nguyên Khang can thiệp, đưa Tường cuối năm ấy về Sài G̣n làm trong tờ báo Đời của Quân đội. Đầu năm 1970 khi Chu Tử ra thêm tờ nhật báo Sóng Thần, Đoàn Kế Tường vừa viết cho Đời vừa viết thêm cho Sóng Thần. Tại đây, anh chơi thân với họa sỹ Ớt (Huỳnh Bá Thành), đang làm cho báo Điện Tín. Tường kể: “Buổi trưa chúng tôi vẫn cùng nhau binh xập xám”.



    Nhưng, sau cái ranh giới 30-4-1975, Ớt và Tường không bao giờ có thể “binh xập xám” với nhau. Huỳnh Bá Thành là một cán bộ An ninh T4, biết những người như Đoàn Kế Tường ở lại và “tư tưởng đang có những diễn biến phức tạp”. Trong Hội nghị ngày 3-9-1975, Trung ương Cục lưu ư “các đối tượng làm việc cho các cơ quan Mỹ, văn nghệ sĩ, báo chí, kư giả” và phân công: “An ninh phối hợp với Hoa vận, t́nh báo nghiên cứu đề xuất phương án đối với Quốc Dân Đảng, Tàu đặc vụ và nhân viên làm việc với nhân viên Mỹ. Tuyên Huấn Thành và Thông tin Văn Hóa nghiên cứu kỹ đối với văn nghệ sỹ, kư giả”69.



    Đoàn Kế Tường kể tiếp: “Tôi trốn tŕnh diện dù có quá khứ là thiếu úy biệt kích rồi cùng người bạn thân là Dương Đức Dũng tham gia vào tổ chức Dân quân phục quốc70. .. Chúng tôi in truyền đơn, in lời kêu gọi và phát tán chúng. Ngày 29-4-1975, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đă lấy trực thăng bay ra hàng không mẫu hạm Midway mà chúng tôi vẫn nghĩ là ông lên rừng lập chiến khu. Chúng tôi cùng nhau hát: Tôi đi theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh hùng của dân / Tôi đi theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh hùng rừng xanh71. Khi đó, tôi c̣n quá trẻ lại đầy máu nghệ sỹ, cứ nghĩ những việc làm của ḿnh cũng như một cuộc chơi mà sinh viên Sài G̣n vẫn làm hồi trước 1975”.



    Nhưng Sài G̣n đă không c̣n như “hồi trước 1975”. Đoàn Kế Tường kể tiếp: “Trong những ngày ấy, Huỳnh Bá Thành có gặp tôi hỏi, nếu muốn làm báo Tin Sáng th́ Thành sẽ giúp, nhưng tôi chỉ đáp cụt lủn: Không! Tôi sẽ vào rừng!”. Đêm 22-10- 1975, Huỳnh Bá Thành đến nhà Đoàn Kế Tường c̣ng tay người bạn từng binh xập xám hôm nào. Trong đêm ấy, Dương Đức Dũng, Thái Sơn và giáo sư Lê Việt Cương cùng bị bắt.



    Gần bốn tháng sau, ngày 10-2-1976, Nguyễn Việt Hưng, Trần Kim Định bị bắt. Đêm 12 rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh Thành phố bắt đầu tấn công nhà thờ Vinh Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ trong nhà thờ đă dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn Ràng, một cán bộ an ninh. Măi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được nhà thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng 3 người khác bị bắt.



    Vụ nhà thờ Vinh Sơn chưa kịp lắng xuống th́ ngày 1-4-1976, xảy ra một vụ nổ ở Hồ Con Rùa72 làm cho một người chết, bốn người bị thương và phá hủy hoàn toàn con rùa làm bằng đồng đặt giữa hồ.



    Hai ngày sau, báo Sài G̣n Giải Phóng đăng bản tin có tựa đề, “Tóm gọn tại chỗ bọn phản động và phá hoại”, với mấy ḍng ngắn gọn: “Ngày 1-4, bọn phản động và phá hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân ta, đă gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Một tên trong bọn chúng bị chết tại chỗ và bọn c̣n lại đă bị an ninh ta tóm cổ đưa về điều tra”73. Cùng ngày, tờ Giải phóng, cũng đăng bản tin với độ dài và nội dung: “Trừng trị tại chỗ bọn phản động và phá hoại: Tối 1-4-1976, bọn phản động và phá hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân ta, đă gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Công trường này ở ngă tư đường Duy Tân, Vơ Văn Tần và Trần Cao Vân; ở giữa có một vườn hoa nhỏ, đồng bào ta thường ra ngoài hóng mát. Một tên trong bọn phản động bị chết tại chỗ và bọn c̣n lại đă bị an ninh ta tóm cổ đưa về điều tra”74.

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc: PHẦN I : MIỀN NAM / CHƯƠNG II : CẢI TẠO (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương II: Cải tạo
    P3



    Vụ nổ xảy ra lúc 8 giờ tối, được Huỳnh Bá Thành kể lại là “vang dội từ phía sau lưng đuổi tới, nhà cửa hai bên đường rung chuyển và đó đây tiếng kính vỡ rơi lổn cổn, khô khốc”75. Khi “trinh sát” đến hiện trường, theo Huỳnh Bá Thành: “Mùi thuốc nổ vẫn c̣n khét lẹt. Một cảnh tượng hăi hùng trước mắt Trường Sơn: một thây người đầy máu, bay mất cái đầu và đôi bàn tay, đang được anh em cảnh sát khiêng lại để gần chỗ đặt chất nổ. Bốn thanh niên bị thương máu me đầy ḿnh được xe cảnh sát tức tốc đưa đi cấp cứu. Bên cạnh cảnh tượng chết chóc và thương tích rùng rợn ấy, con rùa bằng đồng to tướng bị chất nổ làm banh ra từng mảnh nhỏ, văng ra vung văi. Theo giám định hiện trường của các đồng chí cán bộ cảnh sát thuộc bộ phận khoa học h́nh sự đă xác định sơ bộ: chất nố được đặt ngay ở thân con rùa đồng, loại TNT có sức công phá ước chừng mười đến mười lăm kilogam”76.

    Việc Chính quyền vội vàng kết luận trên báo chí người chết là “một tên trong bọn phản động” là chưa có căn cứ. Huỳnh Bá Thành, người mà báo Tuổi Trẻ nói rằng đă “tham gia điều tra từ đầu cho tới khi kết thúc vụ án”77, cũng thừa nhận rằng: “Không t́m thấy giấy tờ tùy thân nào trong người hắn… khó mà kết luận tuổi tác chính xác khi người chết không c̣n mặt mũi và hai bàn tay. Nạn nhân mặc chiếc quân jean Mỹ bạc màu, chiếc áo kaki đă sờn, chân đi dép nhựa ṃn sát gót.

    Cũng thật khó mà kết luận thành phần xă hội của kẻ đặt chất nổ”78.



    Theo Huỳnh Bá Thành th́ có ít nhất ba trường hợp đă đến công an đầu thú, một số kẻ khác đă bị bắt khi đang ba hoa ở quán café rằng ḿnh là chủ mưu, nhưng “hóa ra bọn họ đều là những kẻ háo danh hoặc có vấn đề về tâm thần”. Nhiều vụ “bắt bí mật” đă được ngành an ninh thực hiện, một trong số đó là Lỗ Hung79. Lỗ Hung khai nhận và theo Huỳnh Bá Thành, trong người anh ta có một mảnh giấy ghi: “Làm thêm ba thẻ tổ viên tổ hợp ván sàn”. Theo Thành th́ vợ chồng nhà văn Trần Dạ Từ và Nhă Ca80 cũng có một tổ hợp ván sàn và Lầu Phá Xấu, theo đặc t́nh của Thành là Đặng Hoàng Hà81, người mà nữ đặc t́nh này biết là thường xuyên qua lại với vợ chồng nhà văn Nhă Ca.



    Trên thực tế, cho dù măi tới ngày 6-4-1976 vụ án mới “được làm sáng tỏ”, nhưng ngày 2-4-1976, tức là chỉ mười hai giờ sau vụ nổ, những người như Nhă Ca, Trần Dạ Từ đă bị bắt. Nhà văn Duyên Anh kể: “Buổi tối, mùng 2-4-1976, tôi định xuống Cây Quéo kiếm Trần Dạ Từ hỏi xem Từ có đem về nhà cuốn Em Yêu nào không. Em Yêu là cuốn sách mới nhất của tôi, nhờ Trần Dạ Từ in mướn. Sách chưa kịp vô b́a, th́ Sài G̣n mất. Rẽ vào đường Ngô Tùng Châu, nh́n con ngơ nhà anh chị Hoàng Văn Đức thấy tối tăm, bùi ngùi quá, tự nhiên, tôi đạp xe về. Đêm ấy, vợ chồng Trần Dạ Từ – Nhă Ca bị bắt cùng với Đặng Hoàng Hà82, Đặng Hải Sơn. Nếu tôi có mặt ở nhà Từ, tôi cũng bị bắt luôn. Cũng đêm ấy, Trịnh Viết Thành, Nguyễn Mạnh Côn lên đường trực chỉ Sở Công an”83.



    Một chiến dịch bắt bớ văn nghệ sỹ được kéo dài cho đến ngày 28-4-1976. Duyên Anh kể tiếp: “Đêm ấy, đêm kinh hoàng, đêm mở đầu chiến dịch khủng bố văn nghệ sĩ. Hôm sau, cả Sài G̣n xôn xao vụ bắt bớ nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tối mồng 3-4, tôi đến nhà Mai Thảo ở 101 Phan Đ́nh Phùng xem Mai Thảo bị bắt chưa. Tôi ngồi ngoài xe hơi của Đặng Xuân Côn, bảo Côn xuống hỏi thăm Nguyễn Đăng Viên, anh ruột Mai Thảo. Viên rất thông minh, anh trả lời Mai Thảo đi vắng và nhờ Côn, nếu gặp Mai Thảo, nhắn về gấp. Viên ra dấu cho Côn chuồn lẹ. Côn hiểu ư v́ đă đoán ra hai khách lạ nón cối, dép râu, nh́n Côn không chớp mắt. Tôi rú ga, vọt mau. Côn ngoái lại, hai khách công an đă phóng ra vỉa hè. ‘Nó đến bắt Mai Thảo’, Côn nói. Tôi đi t́m dấu vết Mai Thảo, không lùng nổi tung tích Mai Thảo. Công an không bắt được Mai Thảo, đă giả vờ quên tôi. Để tôi kiếm giùm Mai Thảo”84.



    Đến chiều ngày 8-4-1976 th́ chính Duyên Anh cũng chịu chung số phận. Ông kể: “Trước đó nửa tiếng đồng hồ, tôi đang băm thịt, nấu cháo nuôi vợ ốm, ông tổ trưởng dân phố của tôi dẫn ông phường trưởng và công an phường đến thăm gia đ́nh tôi, hỏi chuyện sinh hoạt phường khóm và nếp sống mới. Tôi bỏ nồi cháo dưới bếp để tiếp chính quyền. Chừng mười phút, một ông công an cáo lỗi ra về. Mười phút sau, mật vụ ập vào nhà tôi, súng ngắn súng dài đầy đủ. Cộng sản luôn luôn chơi chắc ăn. Họ giả vờ thăm viếng tôi. Khi biết đích xác tôi có mặt ỏ nhà, họ mới đến bắt… Cảnh tượng gia đ́nh tôi, bấy giờ, thật bi thảm. Vợ tôi đang đau nặng, vụt tỉnh, tung mền chạy ra pḥng khách. Tôi nh́n cái c̣ng nhăn hiệu Mỹ do cộng sản siết dính trên tay ḿnh, nh́n vợ tôi mặt mày tái mét, nh́n ba đứa con tôi ngơ ngác, nước mắt chảy ṛng ṛng. Tôi đợi công an đến bắt tôi sau khi tôi hay tin họ đă bắt Nguyễn Mạnh Côn, Trịnh Viết Thành, Doăn Quốc Sĩ…”[85].



    Lư do “bọn phản động cho nổ Hồ Con Rùa” được Huỳnh Bá Thành thuật lại trong cuốn sách mà báo Tuổi Trẻ khẳng định là “một câu chuyện hoàn toàn có thật” là nhằm phá con rùa “ếm đuôi rồng” để cho đuôi rồng quậy phá chế độ mới86.



    Duyên Anh, một nhân vật của cuốn sách Vụ Án Hồ Con Rùa, nhận xét: “Bỏ qua thứ văn chương hạng bét và thứ kiến thức t́nh báo giày dép của Huỳnh Bá Thành, cộng sản khẳng định chúng tôi là tay sai của CIA gài lại. Căn nhà số 104 đường Công Lư (sau này đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa) của vợ chồng Đằng Giao là trụ sở lui tới họp bàn của chúng tôi. Bút hiệu của chúng tôi được nhai nhái hơi hơi giống. Đằng Giao là Đỗ Gia. Chu Thị Thủy là Chu Nữ. Vợ chồng Nhă Ca, Trần Dạ Từ là Lê Dạ, Tú Dung. Nguyễn Mạnh Côn là Nguyễn Côn. Tôi là Vũ Long… Cộng sản đề cao Hoàng Hà Đặng (tên thật Đặng Hoàng Hà) như một ‘lănh tụ’ ghê gớm, ngang cơ với Hồ Chí Minh thuở hoạt động bí mật. Thật ra, Đặng Hoàng Hà chỉ là anh phóng viên tài tử, con người hiền lành, chưa từng biết t́nh báo là cái ǵ. Đưa chúng tôi lên mây, trao ḿn về cho chúng tôi, cho chúng tôi thảo luận chiến lược(!) với các đại cố vấn Mỹ trước 1975 rồi khi ‘tóm’ được chúng tôi th́ mô tả chúng tôi là những thằng ‘ăn mày’, những thằng ‘đói thuốc phiện thất thểu’ vào tù đền tội, và ‘xưng em’ với nữ công an ngọt xớt”87.



    Trên thực tế, trong những ngày ấy cũng có rất nhiều những người chống đối chính quyền bằng hành động, có những người – nhất là giới văn nghệ sỹ – chống đối bằng những lời nói cho sướng mồm, có những kẻ lợi dụng ḷng tin, bày đặt chống đối để lừa đảo tiền t́nh của những người dân không ưa chế độ. Nhưng cũng có những cái bẫy được đặt ở đâu đó.



    Ngày 6-04-1976, Chính quyền quyết định tấn công vào nơi được coi là “sào huyệt của bọn phản cách mạng”, đặt trong một khu rừng ở Tùng Nghĩa, Lâm Đồng, bắn chết sáu người, bắt sống “Chủ tịch Trần Duy Ninh và tám tên khác”. Ngày 8- 04-1976, bốn mươi ba mục tiêu ở Sài G̣n bị đồng loạt tấn công: “bắt thêm năm mươi tên, thu giữ một điện đài, hai máy in bạc giả, một máy phát điện, toàn bộ máy móc để xây dựng đài phát thanh, tám mươi súng các loại, 100kg thuốc nổ TNT và một số tài liệu phản động”88.



    Hành động này c̣n mang ư nghĩa trấn áp, v́ ngày 29-4-1976, trên cả nước sẽ diễn ra một sự kiện hết sức quan trọng của Chính quyền Cách mạng: Tổng tuyển cử bầu Quốc hội Thống nhất đầu tiên của Việt Nam. Chính quyền muốn đảm bảo rằng sẽ không xảy ra sự cố. Nhiều người đă bị bắt mà cho đến tận khi nhắm mắt ĺa đời vẫn không biết lư do là ǵ89.



    Ngày 7-4-1976, họa sỹ Chóe bị bắt.

    Họa sỹ Chóe tên thật là Nguyễn Hải Chí, trong thời gian “đi trung sỹ” tại Pḥng III, Bộ Tổng Tham mưu, Chóe nổi tiếng với những tác phẩm biếm họa phản chiến đăng trên báo chí Sài G̣n chế diễu từ Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger, Tổng thống Nixon cho tới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; tranh của Chóe cũng châm biếm cả bà Nguyễn Thị B́nh và ông Lê Đức Thọ… Ở cơ quan Tổng Tham mưu: “Hạ sĩ Nguyễn Hải Chí bé tí trước đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng họa sĩ Chóe th́ vĩ đại gấp ngh́n lần Cao Văn Viên”90. Trong chiến tranh, biếm họa của Chóe được các tờ báo nổi tiếng ở Mỹ đăng.



    Chính quyền Sài G̣n cũng không ưa ǵ Chóe. Cuối năm 1974, ông bị bắt do vi phạm lệnh “cấm những người đang phục vụ trong quân đội làm báo”. “Khi đại tướng Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng ḥa đào ngũ trốn khỏi Việt Nam quên đọc Huấn thị, Nhật lệnh, nhờ đại tá thi sĩ Cao Tiêu viết hộ th́ hạ sĩ Hải Chí c̣n nằm ở pḥng giam của Cục An Ninh quân đội”91. Ngày 30-4, chính Cách mạng đă mở cửa nhà tù cho Chóe.



    Họa sỹ Chóe nhớ lại: “Một hôm đi ngang qua quán cà phê 104 Công Lư của Chu Thị Thủy – Đằng Giao, tôi nghe Nhă Ca kêu, nên có vào ngồi một lúc. Đó là lần duy nhất tôi ngồi với họ kể từ sau ngày 30-4”92. Nhưng sự liên đới của Chóe không chỉ bị Huỳnh Bá Thành lưu ư trong lần cà phê ấy.



    Trong Vụ Án Hồ Con Rùa, Thành đă viết về mối quan hệ của Tú Dung – Nhă Ca với Barry Hilton: “Viên sĩ quan CIA người Mỹ tên là Barry Hilton cầm tay chỉ việc cho Tú Dung, th́ nữ văn sĩ này biến thành một ‘nữ biệt kích’ chống cách mạng một cách hoàn toàn không c̣n lương tri của một người trí thức”. Cách nói đó không chỉ cáo buộc Nhă Ca. Huỳnh Bá Thành, cũng từng là một họa sỹ biếm, biết Barry Hilton đánh giá cao tài năng của Chóe. Barry Hilton đă tuyển tranh của Chóe in thành tập The World of Choe. Sách đă in nhưng v́ Barry Hilton là công chức thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ nên phải chấp nhận không phát hành tập sách đả kích Bộ trưởng Ngoại giao lúc đó.



    Chóe bị bắt khi đang làm việc ở ṭa soạn báo Lao Động Mới. Ông bị dẫn về nhà ở số 52/8 Quang Trung, G̣ Vấp, lúc đă 6 giờ chiều; công an khám xét tới 9 giờ đêm th́ giải ông về trại “tạm giam”. Huỳnh Bá Thành là người bắt Chóe.



    Ba ngày trước tổng tuyển cử, 26-4-1976, An ninh ra lệnh bắt tiếp Luật sư Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích không bao giờ biết v́ sao ḿnh bị bắt93. Ông từng làm cho cơ quan trợ giúp Mỹ USAID trong chương tŕnh “cấp căn cước cho người từ mười sáu tuổi trở lên” và sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, ông nhận được học bổng đi học thêm một năm tại Đại học Harvard, Mỹ. Tháng 4-1975, ông là “chuyên viên đặc nhiệm” cho Tổng cục Dầu hỏa và Khoáng sản.



    Những cuộc bắt bớ tương tự kéo dài tới năm 1978. Một trong số đó là nhà trí thức cách mạng Hồ Hữu Tường. Từ giữa thập niên 1920 khi du học ở Paris, ông Hồ Hữu Tường từng tham gia phong trào Đệ tứ Quốc tế cùng với các ông Phan Văn Trường, Tạ Thu Thâu. Mặc dù năm 1939, ông Tường từ bỏ chủ nghĩa Marx và phong trào Đệ tứ nhưng năm 1940 ông vẫn bị người Pháp bắt và đày ra Côn Đảo cho tới năm 1944. Ra tù, với tư cách là một nhà trí thức, ông Tường có nhiều bài viết nổi tiếng về cả chính trị, kinh tế và văn hóa phổ biến ở Hà Nội. Năm 1946, ông làm cố vấn cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa trong Hội nghị Đà Lạt. Ông là một trong những người biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho bậc trung học của nước Việt Nam, lúc ấy, vừa tuyên ngôn độc lập.



    Ông Hồ Hữu Tường bị người Pháp bắt lại năm 1948 và năm 1957, sau khi về sống ở Sài G̣n, bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm tuyên án tử h́nh v́ làm cố vấn cho Mặt trận Thống nhất của Ḥa Hảo, Cao Đài và B́nh Xuyên. Nhờ có sự can thiệp của những nhân vật nổi tiếng trên thế giới như Albert Camus, Nehru, ông được giảm xuống khổ sai. Ông được trả tự do sau khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ. Ra tù, ông được mời làm phó viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và năm 1967, ông tham gia chính trường với tư cách là một dân biểu đối lập. Ông Hồ Hữu Tường không phải đi cải tạo cho đến khi ông có một vài “sáng kiến chính trị” vào năm 1978, năm ông Tường sáu mươi tám tuổi94. Ba lần ông thoát khỏi nhà tù, của người Pháp và của chế độ Ngô Đ́nh Diệm, nhưng tới lần thứ tư th́ không. Ngày 26-6- 1980, ông Hồ Hữu Tường được đưa từ trại Z30D ở Hàm Tân về Sài G̣n, nhưng trên đường đi th́ ông mất.



    Năm 1981, trong khuôn khổ một hoạt động của US-VN Reconciliation Project, bà Luật sư Ngô Bá Thành được mời tới Đại học Harvard. Tại đây, bà cho rằng, những người được đi cải tạo là may mắn v́ nếu họ bị đưa ra một phiên ṭa như Nuremberg th́ có thể họ đă bị xử bắn. Luật sư Ngô Bá Thành không biết rằng con gái của ông Hồ Hữu Tường, người tù cải tạo vừa mới chết một năm trước đó, Giáo sư Hồ Tài Huệ Tâm lúc ấy đang dạy lịch sử ở Harvard cũng được người tổ chức chương tŕnh, ông John McAuliffe, mời dự95. Lập luận của bà Ngô Bá Thành không mới đối với Hà Nội nhưng rất ngạc nhiên khi nó được nói ra bởi một luật sư.



    Việc đưa vào tù hàng trăm ngh́n con người đă buông súng hoặc không hề cầm súng, không bằng một bản án của ṭa, sau ngày 30-4-1975, và đặc biệt, câu chuyện đưa 1.652 con người trên tàu Việt Nam Thương Tín vào tù được kể lại sau đây, thật khó để nói là may mắn.

    Trưa 29-4-1975, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung có được một “sự vụ lệnh” do Tổng thống Dương Văn Minh kư cho phép tàu Việt Nam Thương Tín thực hiện chuyến di tản cuối cùng. Sáng 30-4-1975, khi con tàu này ra tới cửa sông, đă bị B40 bắn theo, giết chết nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm Nhật báo Sống. Con tàu Việt Nam Thương Tín và hàng ngh́n người nằm đợi ở đảo Guam gần năm tháng. Sự chờ đợi trước một tương lai vô định trong khi vợ con, cha mẹ vẫn đang kẹt lại quê nhà đă khiến cho nhiều người muốn quay lại Việt Nam, nơi mà họ tin là đă bắt đầu thống nhất và chắc chắn có ḥa b́nh.



    Một trong số ấy là Đại úy t́nh báo Vơ Tính96. Ông Vơ Tính được người Mỹ tạo điều kiện đưa toàn bộ gia đ́nh di tản. Tuy nhiên, cha ông nói: “Tao chờ đến ngày đất nước thống nhất, tại sao tao phải đi khi ngày đó gần kề”. C̣n cha vợ ông th́ khi đó đang mong hai người con trai tập kết từ năm 1954 trở lại.



    Ông Vơ Tính đă định ở lại Việt Nam, nhưng vào những ngày cuối tháng 4-1975, người Mỹ khuyến cáo là sẽ vô cùng nguy hiểm. Ông Tính được đưa ra Phú Quốc và khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông được đưa ra Hạm đội 7 để rồi sau đó tới Guam. Cũng như nhiều người lính khác, Đại úy Vơ Tính không chắc có bị “Việt Cộng” trả thù trong khi, từ trong thẳm sâu, ông nhận thấy chỉ có Việt Nam mới là tổ quốc. Không t́m được lư do hợp lư để bỏ nước, bỏ cha mẹ già, người vợ trẻ và 3 đứa con thơ, Đại úy Vơ Tính đă tham gia vận động để người Mỹ cho phép những người Việt quay lại Việt Nam bằng con tàu Việt Nam Thương Tín.



    Ngày 29-9-1975, sau khi Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc nhận được sự đồng ư của Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam, tàu Việt Nam Thương Tín rời Guam trong một buổi lễ tiễn đưa trang trọng: có những phụ nữ mặc áo dài, chào cờ và được truyền h́nh Mỹ tường thuật. Trung tá Hải quân Trần Đ́nh Trụ được ủy nhiệm chỉ huy chuyến trở về của con tàu này.



    Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín về đến hải phận Vũng Tàu. Măi tới hôm sau, hai tàu Hải Quân treo cờ đỏ sao vàng mới chạy ra và dừng lại cách tàu Việt Nam Thương Tín gần 200m. Những người lính Hải quân dùng ống nḥm quan sát rất kỹ và sau mấy giờ, họ hướng dẫn tàu Việt Nam Thương Tín chạy ngược ra phía miền Trung. Những người trở về bắt đầu linh cảm điều ǵ đó bất thường nhưng họ vẫn c̣n hy vọng và vẫn c̣n chờ đợi.



    Tới Nha Trang, tàu bị dẫn vào Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Tất cả mọi người đều bị dồn lên những chiếc xe bít bùng và khi được chở tới Trung Tâm Thẩm Vấn của Quân đoàn II th́ mọi người được lệnh “phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng th́nh, một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào pḥng giam”. Trừ một đứa bé khi ấy 7 tuổi, tất cả đều phải đi tù, người ít nhất 9 tháng, người lâu nhất – Trung tá Trần Đ́nh Trụ – phải ở tù tới 13 năm.



    (C̉N TIẾP)

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc: PHẦN I : MIỀN NAM / CHƯƠNG II : CẢI TẠO (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương II: Cải tạo
    P4



    4. Tù và cải tạo

    Cho dù ở tù hay cải tạo th́ đều là thân phận của những người mất tự do. Nhưng được chuyển từ Đề lao Gia Định hay Chí Ḥa ra trại “cải tạo” vẫn là những ǵ mà những “người tù” thèm khát.

    Duyên Anh viết: “Nếu tôi đă phục vụ (trong quân đội) như Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật Nam, Tô Thùy Yên…97, tôi sẽ đóng một khoản tiền ăn mười ngày cho đơn vị tôi tŕnh diện học tập ở trường Gia Long, ở trường Lasan Taberd hay ở cô nhi viện Don Bosco, chẳng hạn. Rồi tôi chờ đợi xe Molotova, xe GMC, xe đ̣ nữa, chở tôi đến trại nào đó ở Long Giao, ở Suối Máu, ở Long Thành. Tôi đi tù với hàng ngàn, hàng vạn bạn bè, tôi không việc ǵ mà sợ hăi. Ít ra, hai ba năm đầu, bộ đội họ quản lư tôi cũng dễ dăi hơn công an. Tôi đi lại thong thả khắp trại và đêm đêm cửa pḥng tôi không bị khóa chặt. Nhưng tôi đă thiếu vinh hạnh làm sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, tôi là nhà văn phản động và công an đă đến c̣ng tay tôi, đưa tôi đi một ḿnh”98.



    Khi đă vào những nhà tù như số 4 Phan Đăng Lưu, số 3c Tôn Đức Thắng hay Chí Ḥa th́ mới thấy được đi cải tạo cũng là một ân huệ. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích kể: “Sau một năm ở xà lim, tôi được đưa ra pḥng giam tập thể, giam chung với sáu mươi chín người khác trong một pḥng. Mỗi người được một phần sàn xi măng rộng 60cm dài hai mét và được phát một chiếc chiếu. Trong pḥng, có các tướng lĩnh, các bộ trưởng và các viên chức cao cấp của Sài G̣n. Tôi nhận ra trong đó có những người cùng bị bắt đợt tháng 4-1976 với tôi”.



    Bên cạnh những người tù không có án như Đoàn Kế Tường, Linh mục Thiện, Luật sư Vũ Đăng Dung, Dân biểu Vơ Long Triều, Nguyễn Ngọc Tân, Như Phong, Lâm Văn Thế, Nguyễn Ngọc Tân, Lê Xuyên… ở các đề lao cũ của Sài G̣n c̣n có các nhà “tư sản mại bản” mà trong đó có một số người có được “vinh dự” ra ṭa như Phạm Quang Khai, Trần Thành, Đào Mậu, Tăng Tài, Nguyễn Công Kha, Bùi Kim Bảng, Nguyễn Văn Trương (Khai Trí), Trương Văn Khôi… và cả những “tên phản động” bị bắt trong vụ Nhà thờ Vinh Sơn như Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng, linh mục Nguyễn Văn Nghị, linh mục Nguyễn Văn Chức, thiếu tá Tiếp…



    Cuối thập niên 1970, ngay cả người Sài G̣n cũng không mấy khi có gạo trắng, cá tươi, cơm tù không thể nào tránh được cá thịu, gạo hẩm. Nước cũng là nỗi khát khao của các tù nhân. Ở Chí Ḥa, tù nhân Đoàn Kế Tường đă từng tổ chức biểu t́nh “đ̣i đi tắm”. “Họ bị cai ngục dẫn đến một pḥng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói tay họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô c̣n ứa trên mép. Rồi họ bị tống vào biệt giam khu FG. Không chịu nổi biệt giam Chí Ḥa, họ đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên tŕ. Tất cả lắc đầu, thở dài”99.



    Nhiều thứ bệnh đi theo người tù như tiêu chảy, kiết lị… nhưng thuốc men gần như không có; những năm đó, ngay cả công an, bộ đội và dân chúng cũng đều phải dùng “xuyên tâm liên chữa bá bệnh”100. Nhưng, không có ǵ làm khổ người tù như ghẻ, lở. Theo Duyên Anh: “Ghẻ đề lao ranh mănh lắm. Nó cứ nhè ‘của quư’ mà lập chiến khu. Tù nhân này cởi truồng, chổng mông để tù nhân nọ bôi thuốc. Bôi xong, vội vàng lấy quạt lia. V́ thuốc xót vô cùng”101. Trong hoàn cảnh ấy, những người tù ở Đề lao Gia Định, Chí Ḥa coi việc được đưa tới các trại cải tạo là giảm nhẹ.



    Trước Tết 1977, hai phần ba văn nghệ sĩ và kư giả, trong đó có Nhă Ca, được tập trung tại khu A, Chí Ḥa, học tập một tháng rồi được thả về. Những người như Doăn Quốc Sĩ, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Trần Dạ Từ, Chóe, Duyên Anh… phần lớn vẫn “ở tù”; cá biệt, những người cứng đầu như Đoàn Kế Tường th́ bị giữ lại suốt 10 năm ở Chí Ḥa. Trong khi đó, một số khác được chuyển từ chế độ tù sang “cải tạo”.



    Nhưng đấy là câu chuyện xảy ra trước năm 1978. Khi Chiến tranh Biên giới Tây Nam xảy ra và ở phía Bắc, Trung Quốc bắt đầu đe dọa, các trại cải tạo được chuyển giao từ quân đội sang cho công an. Theo Đại úy Phan Nhật Nam: “Chúng tôi bắt đầu chịu cảnh tội tù khắc nghiệt”.



    Ngày 8-5-1975, sau khi tŕnh diện, ngoại trừ Tướng Nguyễn Văn Vỹ bị bệnh nặng, các sỹ quan cấp tướng102 và cấp tá bị giữ lại để học tập đợt một tại Đại học xá Minh Mạng, Chợ Lớn trước khi đưa về Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Sau đó, các tướng được đưa ra Bắc bằng máy bay trong khi các sỹ quan cấp thấp hơn được đưa ra Bắc bằng tàu thủy và xe lửa. Nơi đến của những người bị coi là “nguy hiểm” này là các trại giam Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Hà Tây, Nam Hà, Thanh Hóa, Nghệ An.



    Như những người tù thâm niên khác, Trung tá Phan Lạc Phúc đă trải qua những nhà tù gian khổ nhất: Trại Long Khánh – Suối Máu, Liên trại 2 Sơn La, Trại Yên Hạ (Sơn La), Trại Tân Lập (Vĩnh Phú), Trại Thanh Phong (Thanh Hóa), Trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh), Trại Ba Sao (Hà Nam Ninh), Trại Xuân Lộc (Đồng Nai). Yếu tố chính để Phan Lạc Phúc chịu cải tạo lâu là v́ ông đă từng học thông tin báo chí tại Hoa Kỳ, từng làm chủ bút Nhật báo Tiền Tuyến, báo của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa.



    Sau một năm bị giam ở trại Long Giao và Suối Máu, ngày 10-6-1976, ông Phúc được đưa ra Bắc trong đợt đầu tiên. Ông viết: “Chúng tôi đang ngồi ở sân tập kết trại Suối Máu th́ người bạn thân cùng ngành của chúng tôi là Tạ Ty chạy hốt hoảng: ‘Đi chuyến này hở. Ra Bắc đấy. Thế là năm niên đấy. Có nhắn ǵ về nhà không?’ Tôi và Hùng nh́n nhau cười nói với bạn: ‘Nói hộ với gia đ́nh là tụi tôi đi ra Bắc ngày hôm nay. Ở lại khỏe nha’. Người bạn họa sĩ tài danh của miền Nam ngậm ngùi tạm biệt ‘Hẹn gặp lại nhau sớm ở Sài G̣n…’ ”103.



    Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận nhớ lại buổi tối ông bị đưa ra khỏi Sài G̣n: “Ngày 1-12-1976, lúc 9 giờ tối, bất th́nh ĺnh tôi bị gọi cùng với vài tù nhân khác. Chúng tôi bị xích người này với người kia từng hai người một và được đẩy lên một xe cam nhông. Cuộc hành tŕnh ngắn đưa chúng tôi tới Tân Cảng. Chúng tôi thấy một con tàu trước mặt, hoàn toàn ch́m trong bóng tối để dân chúng khỏi để ư.



    Chúng tôi bị đưa lên tàu đi ra miền Bắc… Tôi bị đem xuống hầm tàu, nơi chứa than.



    Chỉ có một ngọn đèn dầu nhỏ leo lét cháy. Chúng tôi tất cả là 1.500 người, trong một t́nh cảnh không thể tả được… Ngày hôm sau, khi một chút ánh sáng mặt trời lọt vào hầm tàu, tôi nhận ra chung quanh tôi những gương mặt buồn sầu và tuyệt vọng của các tù nhân khác. Bầu không khí sầu thảm như đám tang. Một tù nhân đă t́m cách treo cổ tự tử với một sợi dây thép. Những người khác gọi tôi. Tôi đến nói chuyện với anh”104. Trung tá Phan Lạc Phúc cũng được đưa ra Bắc bằng tàu và chuyến đi của ông cũng gian khổ không kém ǵ chuyến tàu của Đức cha Nguyễn Văn Thuận, nhưng những ǵ mà họ gặp trong quăng đường chuyển tù chỉ mới là những thử thách ban đầu105.



    5. “Thăm Nuôi”

    Thời gian cải tạo càng tăng thêm th́ tiền bạc của người nhà tù nhân cũng như ngân sách của “Cách mạng” càng dần cạn kiệt. Từ Tết năm 1976, các suất ăn bắt đầu bị cắt bớt; đến cuối năm 1977, lương thực của tù nhân được thay bằng lúa mạch, thường gọi là bo bo. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường, tới mùa Thu năm 1978, mỗi người chỉ c̣n 300g gạo một ngày. “Rau muống, rau lang không kịp ra đọt non, rau dại cũng bị vặt khi vừa mới nhú. Củ chuối bị đào hết lên”.



    Không phải học viên cải tạo nào cũng biết rằng lúc ấy ở “ngoài xă hội”, cái bao tử của thường dân cũng không no đủ hơn. Chính quản giáo, ban ngày “hắc” thế nhưng đêm xuống cũng t́m gặp những người tù vừa được thăm nuôi để “xin tư mỡ”. Những ngày có đồ thăm nuôi là những ngày trong trại tưng bừng. Những lá thư viết từ trại những năm tháng về sau chủ yếu là liệt kê các “nhu yếu” thăm nuôi. Ông Tạ Chí Đại Trường kể: “Cũng có người vẫn giữ được tiền, mỗi lần thăm nuôi lại có khuân có vác, nhưng cũng có người chỉ có thể mang theo mấy ổ bánh ḿ, lủi thủi với chồng: Không biết lần sau có c̣n vay được tiền đi thăm anh”. Dần dà, những người tù bắt đầu biết thăm nuôi đang trở thành một gánh nặng cho những người mẹ, người vợ ở quê cũng đang đói khổ. Để đi đến các trại cải tạo thăm chồng, thăm cha, những người con lính, vợ lính đă phải nếm biết bao tủi nhục.



    Từ năm 1978, họa sỹ Chóe bị đưa lên trại Gia Trung, Gia Lai. Hai năm ở trại “tạm giam” của cơ quan An ninh Điều tra, số 4 Phan Đăng Lưu, Chóe chỉ được nhận đồ chứ không được gặp người nhà. Hai năm ấy, do phải nằm trên sàn xi măng, chân ông, vốn phong thấp, đă gần như bị liệt. Đến Gia Trung, được thăm nuôi th́ đường sá lại quá xa xôi, cách trở.



    Vợ Chóe, bà Nguyễn Thị Kim Loan, năm ấy phải một ḿnh nuôi bốn đứa con, đồ đạc trong nhà gần như đă bán hết. Cũng như hàng triệu gia đ́nh Sài G̣n, nhà bà cũng được Chính quyền cấp cho “sổ gạo”, nói là gạo nhưng những năm ấy thường chỉ có bo bo hoặc khoai; tiêu chuẩn một kư gạo được Nhà nước bán thay thế bằng 2 kư khoai.



    Không chỉ những người vợ có chồng bị đưa đi cải tạo, trong “chế độ mới” đàn ông trở thành vai tṛ thứ yếu v́ không có việc làm, cuộc sống chỉ c̣n có thể trông cậy vào tài xoay xở, mua bán lặt vặt của những người phụ nữ.

    Bà Loan lả một phụ nữ công giáo di cư từ Phát Diệm, đă từng làm thư kư trong Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng ḥa, từng sống hết sức phong lưu nhờ nhuận bút những bức tranh biếm của chồng đăng trên các báo Sài G̣n, báo Mỹ. Từ khi chồng “đi Gia Trung”, bà Loan phải mua từng bộ đồ cũ, từng bịch xà bông, chen chúc trên xe đ̣, giấu giếm đem về An Giang quê chồng, bán, kiếm từng đồng chênh lệch giá.



    Kiếm tiền để đi thăm nuôi đă khó, mỗi một chuyến đi từ Sài G̣n lên Gia Lai là cả một “đoạn trường”. Trước hết, phải “chạy” xin cái giấy của Phường, rồi từ 3 giờ chiều đă phải ra bến xe xếp hàng. Chính sách “cải tạo nhân đạo” đă biến những hăng xe đ̣ tư nhân như Phi Long, Phi Hổ một thời khoanh tay mời khách mua vé, mời khách lên xe, trở thành những “chuyến xe băo táp”. Có mặt từ chiều ở bến xe, đợi đến 3 giờ sáng “xe khách quốc doanh” bắt đầu bán vé, chen chúc, la ó, nhưng có khi đến lượt ḿnh th́ vé hết v́ xe ít, nhà nước ưu tiên bán trước cho cán bộ có “giấy công tác”.



    Không đi được là bi kịch v́ tiền bạc giành dụm mua cá, mua thịt kho để lâu không được. Nhà nước sợ tù tích trữ thực phẩm trốn trại nên không cho thăm nuôi đồ khô, ngay cả mắm ruốc, muối mè. Lên xe được rồi cũng vô cùng thắc thỏm, những năm ấy nền kinh tế không c̣n “lệ thuộc nước ngoài”, phụ tùng không có, xe cộ hỏng hóc giữa đường là chuyện thường. May mắn, chạy suốt ngày ra tới Phước Tài th́ đêm, không được lên đèo An Khê, ngồi ngủ trên xe cho tới 6 giờ sáng.



    Theo bà Nguyễn Thị Kim Loan: Từ chỗ xe dừng vào tới trại hơn ba cây số. Quản giáo không cho thuê người gánh. Họ nói, “Giờ này mà các chị vẫn không bỏ được cái thói tiểu tư sản à”. Dân Sài G̣n gánh không quen, đau vai, đành cứ phải xách. Xách giỏ thứ nhất lặc lè đi lên chừng trăm thước, quay lại xách giỏ thứ hai. Đi ba cây số mà mất tới hơn hai giờ. Những hôm xe chết máy, lên tới trại đă là nửa đêm thứ hai, trời tối như bưng, lũ đàn bà, con nít cứ nhắm mắt mà đi không nhận ra lối rẽ, bước thẳng vô mấy nấm mồ mới, hét lên. Quản giáo chạy ra mới biết đă lạc vào trại khác, phải ngủ lại đấy, chờ sáng hôm sau t́m đến chỗ giam chồng. Lặn lội xa xôi như vậy nhưng rồi cũng chỉ được nh́n thấy mặt chồng mười lăm phút. Trên một cái bàn cây dài, quản giáo ngồi hai đầu, một bên là “phạm”, một bên là thân nhân, họ chỉ kịp trao đổi với nhau những lời vội vă.



    Năm 1978, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường cũng đang học tập ở trại Gia Trung, kể: “Có người xách bịch đồ thăm nuôi về pḥng mà băn khoăn không biết ở ngoài làm sao vợ nuôi nổi mấy đứa con lại c̣n chạy được tiền đi thăm ḿnh. Nhưng cũng có người thản nhiên, phần v́ đă quen đ̣i hỏi, phần v́ không h́nh dung hết những ǵ đang xảy ra, liên tục gửi thư về giục gửi cho thứ này, thứ nọ. Thảm cảnh gia đ́nh xảy ra từ đó”.



    Đại úy Đỗ Duy Luật, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 248, Sư 18. Ngày 19-4-1975, đơn vị ông được điều từ B́nh Tuy về Long Khánh, tham gia trận Long Khánh gây tổn thất nhiều cho quân Giải phóng. Hai ngày sau khi ra tŕnh diện, ông Luật bị đưa lên Long Giao. Từ tháng thứ hai, ông được viết thư về nhà nhưng chỉ cho khai số hiệu trại là “L2T2” chứ không cho nói rơ địa danh. Vợ ông, cũng như vợ của nhiều người lính khác, phải đi hết trại này sang trại khác, nấp sau những bụi cây cạnh bờ rào ḍ hỏi với hy vọng mong manh t́m chồng. Những chuyến đi như vậy làm khánh kiệt dần chút gia tài mọn của những người vợ lính.



    Từ năm 1978, ông Luật được di lư từ Sơn La về trại Ba Sao, Phủ Lư. Măi tới cuối năm 1979, vợ ông mới t́m được ra thăm. Đó là lần gặp nhau cuối cùng của hai vợ chồng. Khi trở về bà phát bệnh ung thư rồi chết vào đầu năm 1980. Cũng trong năm ấy, ông được chuyển từ Ba Sao về Hàm Tân, vào trại Z30D. Tháng 6-1981, ông được tha với lư do là vợ chết. Khi ông Luật trở về, căn nhà nhỏ của ông ở số 2 Duy Tân không c̣n nữa, vợ ông đă phải bán, trang trải chi phí cho những chuyến đi thăm chồng và nuôi ba con nhỏ.



    Bán nhà chưa phải là bi kịch lớn nhất. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường: “Có những người vợ đă phải đi bán thân. Có những người vợ đă phải sử dụng thế mạnh của đàn bà để kinh doanh, buôn bán. Khi người trụ cột kinh tế là đàn bà, con gái và trẻ em, lại phải t́m cách qua mặt công an, luồn lọt công quyền, ứng biến khi sơ thất ngay cả trên đường xa… th́ không thể nào trách những người phụ nữ ấy. Chuyện một bà tứ tuần có mang với anh tài xế xe hàng, một bà vợ sỹ quan bán chợ trời cặp với anh lính cũ của chồng ḿnh… cũng không có ǵ bất ngờ khi nó được đưa vào trại”106.



    Cũng có những người tù cải tạo thương vợ thật ḷng viết thư về nói: “Thôi, đời anh như vậy là hết rồi, em nên đi t́m hạnh phúc mới, coi có người bộ đội nào…”.



    Điều đó lại chạm vào tự ái của một số người quản giáo duyệt thư, nhiều anh đă kiêu hùng, mắng: “Nhà nước giam giữ các anh không phải nhằm mục đích chia rẽ gia đ́nh, và chúng tôi chiến đấu không phải là để cướp đoạt vợ con của các anh! ”107. Có lẽ, nếu có ai mất vợ th́ cũng chỉ v́ thời thế. Vợ của nhà thơ Tạ Kư đă đi lấy chồng “Việt Cộng” khi ông c̣n bị giam ở trại T6, Long Khánh, cùng với nhà sử học Tạ Chí Đại Trường và họa sỹ Trịnh Cung.

    Trại T6 có một nhà xí hai ngăn nằm ngay ŕa đường vào rẫy của dân, sát bờ rào dây kẽm gai. Thời gian đầu, thân nhân chưa được chính thức thăm nuôi, các trại viên T6 có sáng kiến dùng nhà xí để nhận tin gia đ́nh và tṛ chuyện với người thân mà không bị quản giáo phát hiện. Các trại viên thường thay phiên nhau ra ngồi “trực” ở đó để chờ nhận tin nhắn, nhiều tù nhân đă gặp được người thân, những người cất công đi t́m chồng, t́m con, t́m cha, dù chỉ để nh́n thoáng thấy mặt nhau trong giây lát hay nói thật nhanh một câu báo tin nhà. Họ thường phải lên đấy trước, mượn quần áo làm đồng, cuốc xẻng của những nông dân sống gần trại để ngụy trang và nhờ chính những nông dân này che giấu, men theo hàng rào kẽm gai như những người dân đi làm ruộng t́nh cờ ngang qua hố xí. Cũng chính nơi đó, những người tù nôn nao ngồi chờ…



    Một ngày cận Tết năm 1976, đúng vào phiên “trực hố xí” của họa sỹ Trịnh Cung, ông nhận được tin nhắn: Tạ Kư gặp mẹ lúc 2 giờ trưa nay!”. Trịnh Cung vội báo tin cho Tạ Kư. Khi đó, theo ông Trịnh Cung: “Đó là một tin vui bất ngờ của Tạ Kư v́ đă nửa năm chưa được thăm nuôi. Nhưng thông tin mà anh nhận được từ mẹ chỉ là: Vợ con nó lấy thằng Việt cộng rồi. Ở nhà có mẹ lo sắp nhỏ, con yên tâm. Khi được phép, mẹ sẽ đi thăm”108. Không riêng Tạ Kư, không ít sỹ quan “Ngụy” từ trại cải tạo, khi đột ngột trở về đă phải đột ngột bước ra khỏi nhà ḿnh, v́ “đứa con ngày chia tay c̣n thơ không c̣n nhận ra ḿnh, trong khi trong nhà lại treo cái nón cối”109.





    6. “Học Tập”

    Đầu tháng 4-1865, khi viết thư đầu hàng gửi Đại tướng Tư lệnh Quân miền Bắc Ulysses S. Grant, Đại tướng Robert E. Lee đă xin cho những người lính của ông được mang lừa ngựa, mà họ đă đem từ nhà tham chiến, trở về quê cũ làm ăn. C̣n Đại tướng Dương Văn Minh, cuối tháng 4-1975, đă tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Trong những động thái chính trị trước đó, không có dấu hiệu nào cho thấy Tướng Minh và “bộ tham mưu” của ông đă lo lắng cho số phận của hàng triệu binh sỹ miền Nam.



    Cũng thật khó để trách tướng Minh. Trước khi tuyên bố đầu hàng, ông đă không có cơ hội nào để thương lượng với những người chiến thắng. Nhưng sự khác nhau căn bản giữa hai cuộc chiến tranh nằm ở chỗ: ở Mỹ, năm 1865, những chiến binh miền Nam được các tướng thắng trận mô tả như “một đoàn quân tả tơi, nhưng hiên ngang”, c̣n ở Việt Nam, năm 1975, những người lính miền Nam Việt Nam bị những người Chiến thắng gọi là “tay sai”, là “dă thú”.



    Chưa bao giờ Chính quyền cho công bố chính xác số lượng người bị đưa đi cải tạo110.



    Theo số liệu dẫn trong Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, tính tới tháng 9-1982 chỉ riêng ở Sài G̣n, Chính quyền đă tha về hơn ba vạn sỹ quan đă từng là tù cải tạo. Tháng 1-1988, hàng ngàn tù cải tạo đă được tha. Từ đó, gần như toàn bộ số tù cải tạo ở tất cả các trại giam, kể cả từ trại Nam Hà, khoảng 210 người, đều được đưa về trại Z30D. Họ gồm các sỹ quan cấp tướng, cấp tá, hoặc những người từng phục vụ trong các lực lượng như an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, t́nh báo. Nhiều người trong số họ đă phải ở tù tới đầu năm 1992111.



    Tướng Trần Văn Trà và ông Cao Đăng Chiếm, hai đại diện của quân đội và công an trong Ủy Ban Quân quản, đảm trách việc chuẩn bị “Chiến dịch X-1”. Tuy nhiên, theo ông Vơ Văn Kiệt, Đảng ủy Quân quản và Trung ương Cục cũng đă bàn luận rất nhiều, không chỉ là tính những thủ thuật để hàng trăm ngh́n sỹ quan quân đội miền Nam tự mang khăn gói vào tù, mà c̣n đề ra mục tiêu chính trị cho việc tập trung cải tạo. Chủ trương đưa những sỹ quan cao cấp, những người có “nợ máu” đi cải tạo lâu dài cũng không hẳn là để “trả thù” mà, theo ông Kiệt, c̣n “để họ thấy sai, thấy sự lầm lạc và hiểu cuộc chiến tranh của Cách mạng là chính nghĩa”112.



    Có thể đọc được suy nghĩ ấy của những người như ông Kiệt trong các bài xă luận đăng trên báo Sài G̣n Giải Phóng ngay trong những ngày “Chiến dịch X-1” đang diễn ra113.



    Ngày 11-6-1975, hạ sỹ quan, binh lính bắt đầu ngày “học tập” đầu tiên. Ngày 12-6-1975, báo Sài G̣n Giải Phóng có bài “Thấm nhuần tinh thần nhân đạo Việt nam”, xă luận: “Cách mạng thắng lợi, giải phóng đồng bào ta, đồng thời cũng giải phóng luôn cả người lính nguỵ. Cuộc đời làm lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ đă chấm dứt. Họ khỏi phải chết. Họ thoát khỏi kiếp sống cực nhục trong đội quân chống lại tổ quốc. Đó là hành vi nhân đạo đầu tiên rất căn bản của cách mạng đối với họ. Giờ đây, dù họ có bị bắt giam hay không, họ vẫn là những tù, hàng binh trong tay các lực lượng vũ trang giải phóng… Tuy nhiên, nếu chúng không chống cự th́ ta cũng không giết chúng. Chúng cũng là con người Việt Nam. Đế quốc Mỹ và tay sai đă biến chúng từ con người thành ra dă thú. Cách mạng phải cải tạo chúng từ thú trở lại thành người. Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân được nữa. Đồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính”114.



    Ngày 15-6-1975, báo Sài G̣n Giải Phóng xă luận tiếp: “Ḥa hợp là một chính sách lớn của cách mạng. Muốn hoà hợp dân tộc th́ điều cơ bản và đầu tiên là phải làm sao cho mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc có một lập trường thống nhất làm cơ sở. Giặc Mỹ và bọn tay sai bán nước dă dùng một chính sách chia rẽ tệ hại nhất. Chúng gây thù hằn giữa các thành viên của dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa các địa phương. Chúng cố t́nh chia cắt nước ta… Nguy hiểm hơn cả là chúng đă dùng mọi thủ đoạn để nhồi nhét vào đầu óc của một số người chủ nghĩa chống cộng điên cuồng để làm b́nh phong che dấu mục đích xâm lược. Bởi v́ chúng biết rằng những người cộng sản là những người yêu nước nhứt, là những người chống đế quốc quyết liệt nhứt… Làm sao có thể hoà hợp giữa những người yêu nước với những người chống lại tổ quốc, dù dưới bất cứ h́nh thức nào và nhăn hiệu nào?



    Súng đă nộp mà tư tưởng chống cách mạng vẫn c̣n th́ hoà hợp làm sao được?… V́ vậy, hoà hợp dân tộc là trước hết, họ phải gột sạch những nọc độc tư tưởng giặc Mỹ đă gieo rắc, từng bước tiếp thu ánh sáng chính nghĩa của dân tộc. Đợt học tập tổ chức cho binh sỹ nguỵ quân, nguỵ quyền hiện nay đă mở ra cho họ một cơ hội tốt để làm việc đó. Qua học tập, họ phải thấy cho rơ âm mưu và tội ác của giặc Mỹ và tay sai, phải nhận ra chính sách khoan hồng đầy nhân nghĩa của cách mạng, phải thấy hết lỗi lầm của ḿnh đối với dân tộc và con đường tất yếu họ phải đi từ đây để làm lại cuộc đời, trở thành người công dân Việt Nam chân chính. Đó là con đường duy nhất đưa họ đi đến hoà hợp với đông đảo các tầng lớp nhân dân”115.



    Cho tới đầu thập niên 1990, quan điểm của Đảng về việc tập trung cải tạo vẫn c̣n khắc nghiệt. Thông báo ngày 20-2-1991 của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương “Về nhữ ng luâṇ điệu xuyên tạc của Bùi Tín trên đài BBC” viết: “Việc cải tạo những phần tử đă gây nhiều tội ác hoặc c̣n mang nặng tư tưởng chống cộng, thù địch quyết liệt với cách mạng hoàn toàn không phải là vi phạm nhân quyền, càng không phải là việc làm trái với chính sách ḥa hợp, ḥa giải dân tộc mà chính là việc làm cần thiết để bảo vệ cuộc sống ḥa b́nh, yên vui của nhân dân, bảo vệ nhân quyền cho mọi người để tăng cường ḥa hợp dân tộc”.



    Đúng như ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận, đ̣i hỏi những sỹ quan thua trận “tiếp thu ánh sáng chính nghĩa” từ những người đưa ḿnh vào tù là một yêu cầu quá cao. Cán bộ quản giáo miền Bắc, những người trực tiếp giáo dục lại các “ngụy quân và ngụy quyền” là những người lớn lên trong một xă hội hoàn toàn khép kín. Những giai thoại nói mấy chú bộ đội ngày mới vô, thấy Sài G̣n giàu có, đă giữ tư thế cho miền Bắc xă hội chủ nghĩa bằng cách khoe: “Ngoài đó, ti vi tủ lạnh chạy đầy đường”, không chỉ là những chuyện kể khôi hài. Chuyện bộ đội tiếp quản biệt thự, cao ốc, nh́n thấy cái bồn cầu sứ trắng tinh tưởng là bồn rửa rau, cho rau vào, giật nước, thấy rau trôi mất bèn kêu: “Bọn tư bản nó gài bẫy” cũng không hẳn là tiếu lâm chính trị.



    Hầu hết bộ đội miền Bắc đều ra đi từ những làng quê nghèo đói. Đến khi vào tới Sài G̣n th́ đến Đài Tiếng nói Việt Nam cũng ít có dịp được nghe, sách báo th́ ngay cả Thép Đă Tôi Thế Đấy, Rừng Thẳm Tuyết Dày… cũng không đủ đọc. Họ được dạy rằng người dân miền Nam đang phải rên xiết, lầm than; nhiều thanh niên miền Bắc trong ngày 30-4-1975 c̣n ước ao được nhanh chóng vào Nam để giáo dục những thanh niên lầm đường lạc lối.



    Không ít quản giáo khi tiếp xúc với những sỹ quan được đào tạo chính quy của miền Nam đă nhận ra sức hiểu biết của ḿnh đang ở đâu. Cũng có những người v́ mặc cảm đă dùng quyền uy lấn át. Nhưng cũng có những người tiếp tục trung thành với những ǵ được dạy. Sự say sưa làm “thầy” của họ đă tạo ra không ít t́nh huống trớ trêu.



    Theo ông Nguyễn Văn Trân116, người được bổ sung vào Trung ương Cục đầu tháng 4-1975, chủ trương từ trước của Bộ Chính trị là: Số nguy hiểm th́ đưa ra miền Bắc cải tạo, số không nguy hiểm th́ để lại trong Nam. Bản thân những người trong cuộc cũng nhận thấy những người được cải tạo ở miền Nam th́ cuộc sống có phần nhẹ nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Những người “tù nặng, tù lâu” th́ ra Bắc. Những năm đầu việc cải tạo do bộ đội quản lư, kể từ sau cuộc chiến tranh biên giới 17-2-1979, tù cải tạo được chuyển dần sang các trại ở Nam Hà, Thanh Hóa.



    Không chỉ bị hành hạ về tinh thần, thật khó lư giải v́ sao những người chiến thắng lại giam giữ những đối thủ đă đầu hàng ḿnh lâu như vậy. Cho tới đầu thập niên 1990, những người lính biệt kích bị bắt hồi đầu thập niên 1960, những tù binh “Ngụy” bị bắt hồi Mậu Thân (1968), hồi Chiến dịch Hạ Lào 1971 vẫn c̣n phải đang “cải tạo”.



    Nhà thơ Tô Thùy Yên, sau mười năm ở tù về đă viết:

    Ta về cúi mái đầu sương điểm

    Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

    Cám ơn hoa đă v́ ta nở

    Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

    Ta về như lá rơi về cội

    Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

    Chút rượu hồng đây xin ruới xuống

    Giải oan cho cuộc bể dâu này…



    Cải tạo không chỉ là câu chuyện của từng số phận mà c̣n là một phần trong “cuộc bể dâu” cuối thế kỷ 20 của Việt Nam.

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương III: Đánh tư sản




    http://hosytan.wordpress.com/2012/12...i-danh-tu-san/



    Đánh Tư Sản : Những công cụ chuyên chính vô sản áp dụng ngay sau ngày 30-4-1975: Đánh tư sản vào tháng 9-1975 và liền sau đó là đổi tiền lần thứ nhất 22-9-1975; Cải tạo tư sản tháng 3-1978… Sự khác nhau của cải tạo tư sản và đánh tư sản (“Chiến dịch X-2”/ Đổi tiền/ “Gian thương”/ “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”/ Hai gia đ́nh tư sản/ Kinh tế mới)

    Sau khi hàng trăm ngàn binh lính đă được “học tập”, đă nhận thấy “tội lỗi” của ḿnh, c̣n các sỹ quan th́ đă bị giữ trong các trại cải tạo, Sài G̣n lại náo động bởi chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xă hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đă phải trải qua hai lần bị “đánh”.

    “Chiến dịch X-2”



    Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài G̣n họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường: Mă Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy; Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê…”117. Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu đă bị bắt.

    Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, danh sách “tư sản mại bản” bị đánh trong đợt này chủ yếu tham khảo từ một tài liệu về “Chính sách hậu chiến” được viết năm 1974 của Chính quyền Sài G̣n, trong đó có phần ánh giá vai tṛ lũng đoạn thị trường của các “vua” người Hoa ở Chợ Lớn. Giờ G của Chiến dịch X-2 lúc đầu được định là 5 giờ sáng ngày 10-9-1975, sau do trục trặc trong “hợp đồng tác chiến”, tin tức bị lọt ra, nên phải triển khai từ lúc 12 giờ khuya ngày 9-9-1975. Hơn 10.000 công nhân, học sinh, sinh viên đă được điều động áp át các mục tiêu. Hàng vạn “quần chúng” khác được đưa xuống đường để gây áp lực về dư luận118.

    Về lư luận, “tư sản mại bản” được chính quyền cách mạng coi là “địch” nên phương thức mà Chiến dịch X-2 tiến hành được xác định rơ là “đánh”. Tài liệu đă dẫn viết tiếp: “Phản ứng của địch nói chung là yếu. Tư sản mại bản đối phó chủ yếu bằng cách phân tán tài sản cho bà con thân thuộc. Số đă bị bắt th́ tuy hoang mang, sợ sệt nhưng lại tiếc của nên ngoan cố, không chịu khai ra của ch́m, tiền bạc, hột xoàn”119.

    Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục kư vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đă kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.

    Trong buổi giao ban của Thường vụ Trung ương Cục vào lúc 7 giờ tối ngày 10-9- 1975, tại Dinh Độc Lập, với sự có mặt của ông Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục, ông Nguyễn Văn Trân, ủy viên thường vụ, cùng các lănh đạo Quân quản như Nguyễn Vơ Danh, Phan Văn Đáng…, ông Mai Chí Thọ cho rằng các đoàn, các đội chỉ mới bắt được đối tượng, mới nắm được tài sản nổi chứ chưa lấy hết tài sản ch́m.

    Ông Mai Chí Thọ tuyên bố: “Một tên tư sản Hoa có thể có từ 500 đến 1 ngàn lượng vàng. Qua chiếm lĩnh và khai thác ta mới hỏi sơ chứ chưa lục xét, chưa truy sâu nên có thu được vàng và ngoại tệ, nhưng so với số chúng đă có th́ chưa bao nhiêu. V́ vậy, các đoàn cần đi sâu lục soát hơn nữa trong nhà chúng để truy vàng bạc và ngoại tệ. Phải dựa vào quần chúng, người làm công ở mướn phát động họ để phát hiện nơi giấu cất”. Một tuần trước khi Chiến dịch X-2 diễn ra, do vật giá tăng quá cao, chính quyền đă “đánh” một số đối tượng bị quy là lũng đoạn thị trường, nhất là thị trường bột ngọt121.

    Đổi tiền

    Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đă mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của chúng đă bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp những đ̣n mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ Sài G̣n đă được thay thế bởi đồng tiền mới.

    Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà Trung ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền tệ mới; ngăn chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường, đồng thời tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, t́nh báo; đẩy lùi lạm phát”123. Với nhận thức tiền c̣n là “phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, t́nh báo”, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền hạn chế.

    Mỗi hộ gia đ́nh được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài G̣n cũ”- 500 đồng tiền “Chánh quyền Sài G̣n cũ” đổi được một đồng tiền mới Ngân hàng Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được đổi mỗi người 15.000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được đổi 100.000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000 đồng; khách văng lai, mỗi người được đổi 20.000, số c̣n lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên lai về địa phương giải quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đ́nh nếu có nhiều tiền hơn mức được đổi ngay th́ phần c̣n lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.

    Chập tối ngày 21-9-1975, ngành ngân hàng huy động 10.000 cán bộ. Bộ Tư lệnh thành huy động 17.921 bộ đội; các quận huy động 35.000 người. Tất cả được đưa đến các quận, các khu vực, mà không biết trước sẽ được giao nhiệm vụ ǵ. Họ phải kê khai tất cả tiền bạc, tư trang mang theo người và từ đó, “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Trong đêm 21-9, họ được tập huấn công tác thu đổi tiền. Đúng 2 giờ sáng ngày 22-9-1975, họ được triển khai xuống các “bàn đổi tiền”.

    Theo kế hoạch, đúng 5 giờ sáng, mọi công tác chuẩn bị phải hoàn tất. Tuy nhiên, “do điều động một số lượng người khổng lồ và phải chuyển tài liệu xuống tận các ‘bàn’, nhân sự lại chỉ được tập huấn vội, trong khi lại phải kê khai và xét duyệt mất nhiều thời gian, nên công tác kê khai, đăng kư cho đến 11 giờ ngày 22-9-1975 vẫn chưa xong. Trước t́nh đó, Ban thu đổi Thành phố quyết định kéo dài thời gian đăng kư kê khai tới 21 giờ ngày 22-9-1975 và chỉ thị cho các quận coi đây là khâu quan trọng nhất, là khâu quyết định của chiến dịch đổi tiền. Đến ngày 23-9-1975, các nơi bắt đầu thu tiền cũ, đổi tiền mới cho đồng bào nhưng do t́nh h́nh phức tạp, đồng bào vẫn kéo tới đăng kư kê khai với nhiều lư do: hai ba hộ, trong một nhà [hộ ghép] chỉ mới hưởng được tiêu chuẩn của một hộ; đến trễ hoặc đến mà nhân viên đổi tiền làm không kịp… Trong t́nh h́nh đó, Ban thu đổi tiền phát hiện được âm mưu phân tán tiền của tư sản nên quyết định chấm dứt việc đăng kư kê khai tại bàn”124.

    Có những sỹ quan đang ngồi trong trại tập trung cải tạo khi nghe thông báo đổi tiền mới giật ḿnh v́ không ai ở nhà biết nơi giấu tiền. Năm ngày sau, Chính phủ đă phải lập “hội đồng cứu xét từng trường hợp” và có sỹ quan từ trại cải tạo đă được đưa về tận nhà để chỉ cho gia đ́nh nơi giấu tiền.

    Quyết định đổi tiền được báo Sài G̣n Giải Phóng coi là để kết thúc “30 năm sống dơ và chết nhục của đồng bạc Sà i G̣ n”125. Đồng tiền Sài G̣n bắt đầu được phát hành ngà y 1-1-1955, được Chính quyền mới gắn cho nhiều tội lỗi126. Ba ngà y sau đổi tiền, báo Đảng ở Sài G̣n viết: “Miền Nam đă có một nền tiền tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhận dân thành phố Hồ Chí Minh đă nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hănh diện chưa từng thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất nước phải ép ḿnh sống với đồng bạc của ngoại bang”127.

    Không biết “tủi nhục” đă mất đi bao nhiêu sau Chiến dịch X-3, nhưng rất nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đă trở thành giấy lộn.

    Kể từ sáng 23-9-1975, những ai c̣n đồng bạc của chính quyền Sài G̣n cũ mà chưa đăng kư th́ coi như hết giá trị.

    Sáng sớm ngày 23-9-1975, ông Phạm Văn Tư chở vợ, bà Vơ Thị Mai, từ thị trấn Sông Mao, Hải Ninh, B́nh Thuận vô Phan Thiết sinh. Vừa rạng sáng th́ xe ông bị chặn lại. Du kích cho biết là có lệnh không cho bất cứ ai ra ngoại tỉnh nhưng khi thấy một bà bầu đang ôm bụng, họ hội ư rồi cho đi.

    Đưa vợ vào nhà bảo sanh xong, để cô con gái Phạm Thị Mai Hoa128, năm ấy lên tám tuổi ở lại, ông Tư nhanh chóng quay về nhà. Do thường xuyên cần tiền cho trại cưa hoạt động nên khi ấy nhà ông có tới ba bao tải tiền mặt trị giá gần 7.000 lượng vàng. Đến nhà, ông Tư phân tán tiền định nhờ bà con mỗi người đổi giùm một ít nhưng kế hoạch bị bại lộ. Du kích bao vây nhà ông, bắc loa tuyên bố: “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Hôm sau, những bao tiền đó bị ném tung ra, bay trắng cả vườn.

    Ông Phạm Văn Tư chỉ là một chủ trại cưa, nhưng khá “có tiếng” ở thị trấn Sông Mao, nên khi ở Sài G̣n, “tư sản mại bản” bị đánh, địa phương bắt đầu quản lư trại cưa của ông. Ông Tư cùng một người Hoa, ông Kim Kư, mua lại trại cưa này năm 1964, khi “Việt Cộng” bắt đầu nắm giữ các khu rừng, dân kinh doanh liên quan đến gỗ phải đi dây để không làm mất ḷng hai phía. Chiến tranh càng lan rộng, thị trấn Sông Mao trở nên nhộn nhịp khi trở thành căn cứ của Sư đoàn 23 Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, công việc làm ăn của ông Tư càng thêm phát đạt.

    Vào những ngày cuối tháng 3-1975, ông Kim Kư ,người đă chạy khỏi Trung Quốc năm 1949, khuyên ông Tư nên di tản. Nhưng ông Tư không dễ ǵ từ bỏ một sản nghiệp đă gây dựng cả cuộc đời, không dễ ǵ ra đi không biết nơi đến thế nào với bảy người con đang tuổi ăn học. Trong khi đó, những Việt Cộng mà ông Tư gặp trong rừng cũng khá dễ thương. Khi ông cung cấp đèn pin, đá lửa, thuốc kư ninh, họ đă trấn an ông rằng ông vẫn được tiếp tục làm ăn như cũ. Khi những người có máu mặt trong vùng lặng lẽ tới Phan Rí xuống tàu, vợ chồng ông Tư vẫn ở lại. Ngày 10-9-1975, Chính quyền ập vào nhà kiểm kê từng lưỡi cưa, ṿng bi trong nhà ông và tuyên bố quản lư xưởng cưa. Ông Tư hôm ấy vẫn chưa ư thức được là tài sản của ông đang bị tước đoạt. Sáng hôm sau, như thường lệ, ông vẫn mang xuống xưởng một ấm nước chè cho anh em thợ. Vừa tới xưởng, ông bị một người thợ chặn lại: “Trại cưa này không c̣n là của ông, từ giờ nó là của công nhân, ông không được đến đây nữa”129. Ông Tư sững lại nụ cười trên gương mặt ông từ từ méo đi. Hơn mười ngày sau th́ xảy ra vụ đổi tiền. Ông Tư gần như phát điên. Cô em vợ nghe, chạy qua bị du kích chặn lại. Đứng ngoài b́a ruộng, nh́n thấy anh rể ḿnh cứ cười sằng sặc. Thương anh, cô chỉ biết một ḿnh lặng lẽ khóc.

    Ở Huế, chiều ngày 21-9-1975, Hiệu phó kiêm Bí thư Đoàn trường Nguyễn Tri Phương Trần Kiêm Đoàn130 được Thành đoàn Huế giao phối hợp với Đoàn trường Đồng Khánh, dẫn 200 đoàn viên theo cửa Thượng Tứ vào Đại Nội. Trước khi đi, Thành đoàn ra lệnh: “Chuẩn bị khăn gói, thức ăn ba ngày, sẵn sàng chiến đấu”.

    Ông Đoàn kể: “Tụi tôi hồi hộp: Mỹ quay lại hay binh lính Sài G̣n nổi dậy? Tới 3 giờ sáng th́ mới hay tin sáng mai đổi tiền. Khi ấy tôi c̣n trẻ, hào hứng với những cái mới nên nghe nói một đồng tiền mới giá trị bằng 500 đồng tiền cũ cũng có cái ǵ đó tự hào. Sáng ra vẫn tả xung hữu đột đôn đốc đoàn viên hoàn thành nhiệm vụ”. Nhưng, tới trưa, theo ông Trần Kiêm Đoàn: “Đi đâu cũng thấy dân kêu gào thất vọng. Ba giờ chiều, tôi tranh thủ về nhà, thấy vợ ngồi thẫn thờ, nước mắt lưng tṛng: Anh! Ḿnh trắng tay rồi!”. Mỗi gia đ́nh chỉ được đổi tối đa 100 ngh́n tiền Sài G̣n trong khi tiền mặt trong nhà vẫn c̣n tới gần mười triệu. Không chỉ nhà ông Đoàn, nhiều gia đ́nh buôn bán ở cửa Đông Ba, hàng xóm của ông, cũng đang kêu khóc.

    Những người càng tin tưởng vào chế độ mới càng mất mát lớn hơn, v́ khi chiến tranh kết thúc, họ đă đào vàng lên bán, lấy vốn kinh doanh. Ông Đoàn kể: “Tôi trở về Đại Nội. Một vị chỉ huy lực lượng đổi tiền biết chuyện kêu lại nói: ‘Muốn đổi bao nhiêu cũng được nhưng phải chia 5:5. Về xóm coi có ai th́ kêu họ đổi luôn’. Tôi về lấy tiền và móc nối với mấy người trong xóm. Đúng là đổi bao nhiêu cũng được thật”.

    Gần một tháng trước đó, ngày 28-8-1975, Chủ tịch Hội Đồng Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Huỳnh Tấn Phát đă kư Nghị định “Đ́nh chỉ vĩnh viễn 16 ngân hàng tư nhân”. Ngày 3-9-1975, báo Sài G̣n Giải Phóng thông báo việc “rút tiền tiết kiệm”, theo đó, “những người có trương mục dưới một triệu có thể rút dần tiền về, số trung b́nh mỗi nhân khẩu có thể rút là 10 ngh́n đồng/tháng”, c̣n những trương mục trên hai triệu “sẽ được ngân hàng quốc gia cứu xét riêng rẽ”.

    Trên thực tế, không mấy ai rút được đồng tiết kiệm nào trước ngày đổi tiền, 22-9- 1975.

    Cũng trong ngày 3-9-1975, Ngân hàng Quốc gia tuyên bố “Công khố phiếu không c̣n giá trị”, Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù của các ngân hàng hay của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu vay để thêm ngân sách cho guồng máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ đă mang tiền của tháo chạy, Chánh quyền Cách mạng hiện đang quản lư tài sản của toàn dân, không lư ǵ và không có quyền lấy tiền nhân dân trả nợ thế cho Nguyễn Văn Thiệu”131.

    Người dân miền Nam từng nghe những “luận điệu” như Việt Cộng về th́ sẽ lấy ḱm rút móng những ai sơn móng tay, bắt đàn bà con gái lấy thương binh. Ít ai lường được sẽ có những mũi ḱm êm ái hơn như… đổi tiền. Nếu như “đánh tư sản mại bản” chỉ liên quan đến mấy trăm gia đ́nh, th́ đổi tiền và chính sách mới về số tiền gửi cũ trong các ngân hàng liên quan đến mọi người. Tiền bạc cũng giúp những người như ông Đoàn hiểu thêm về con người trong chế độ mới.

    “Gian thương”

    Tháng 8, tháng 9-1975, giá cả các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là bột ngọt, tăng vọt. Chính quyền Cách mạng, lúc này vừa kiểm soát tuyệt đối các phương tiện truyền thông, đă cho rằng đó là “tội ác của các trùm tư bản”. Báo Sài G̣n Giải Phóng ngày 27-7-1975 chạy tít: “Cơn sốt bột ngọt đă làm cho đồng bào nhận rơ bọn trùm gian thương đầu cơ tích trữ”.

    Không chỉ có bột ngọt tăng giá. Trước tháng 6-1975, một kư muối bột giá bảy mươi đồng, đến tháng 8-1975, giá đă lên tới 300 đồng một kư; một viên đá lửa đỏ, giá tháng 6-1975 là mười đồng, hai tháng sau đă lên đến sáu mươi đồng; giá một chiếc bu-gi xe lam tăng từ 500 đồng lên 1.100 đồng; một bộ vỏ, ruột xe Honda tăng 7.000 lên 17.500 đồng. Ngày 30-4-1975, một kư bột ngọt giá chỉ 3.000- 3.500 đồng, đến tháng 8-1975 đă tăng lên 17.000-18.000 đồng.

    Ngay trong số báo ra ngày 10-9-1975, Tuổi Trẻ đă có bài “điều tra”, khẳng định: Nói bột ngọt khan hiếm là v́ “đă đưa hết ra Bắc” là một “luận điệu tuyên truyền ác ôn”. Dẫn lời một “bác Hai” làm nghề khuân vác ở chợ Cầu Muối, bài báo kết luận: “Bọn gian thương chứ không ai hết. Tụi nó bóc lột xương máu của nhân dân lao động như thế quen rồi”. Cũng theo một “công nhân khuân vác” được trích dẫn trong bài báo này th́, “tội ác của bọn chúng, phải tử h́nh mới thoả măn ư chí của nhân dân”. Ở các tỉnh Miền Tây, trong tuần lễ thứ hai của tháng 9-1975 cũng có tới “hơn năm mươi tay gộc tư sản mại bản đă bị bắt giữ”.

    Tài liệu do Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt nam, đăng trên các báo ra ngày 10-9-1975, nêu “mười tội ác” của tư sản mại bản132. Để phân biệt tư sản mại bản với tư sản dân tộc, ông Nguyễn Nam Lộc, ủy viên Tuyên-Văn- Giáo của Liên hiệp Công đoàn Thành phố nói: “Ở đây ta không đi sâu vào giải thích danh từ. Ta chỉ hiểu tư sản dân tộc đại để là những người bỏ vốn ra kinh doanh vừa có lợi cho họ vừa có lợi cho dân tộc. Họ không dựa vào thế lực kinh tế chính trị của ngoại bang hay tay sai của ngoại bang”133.

    Khi bị Ṭa án Nhân dân Đặc biệt đưa công khai xét xử, “một số tên tư sản mại bản”, trong đó có “tên” Hoàng Kim Quy, đă bị xử “hai mươi năm tù, tịch thu toàn bộ tài sản”. “Tội trạng” của ông Hoàng Kim Quy được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn kết luận đanh thép: “Bức thư y [Hoàng Kim Quy] gửi cho Tổng trưởng Ngoại giao Ngụy thúc giục Chính quyền vay của Ả-Rập Xê-út 500 triệu đô la để mớm hơi cho chiến tranh Việt Nam Hóa của Mỹ đang phá sản và trả dài hạn bằng cách cho đầu tư khai thác mỏ dầu ở thêm lục địa Việt Nam. Quy đă suy nghĩ và hành động như một tên xâm lược Mỹ với ư thức chống cộng sâu sắc, cam tâm bán đứng cả miền Nam để duy tŕ chế độ thối nát của Ngụy quyền… Hoàng Kim Quy đă không mơ hồ về mưu đồ của đế quốc Mỹ. Điều y thật sự mơ hồ là không hiểu hết sức mạnh của nhân dân ta. Không hiểu hết được thắng lợi thần kỳ của Cách mạng Việt Nam đă nhanh chóng làm đế quốc Mỹ thất bại và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bóc lột của y phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới”134.

    Cũng với cách luận tội như trên, máy móc nông cụ nhập khẩu của “tên tư sản mại bản” Lưu Trung được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn gắn với một “âm mưu xảo quyệt” của “đế quốc Mỹ” dùng viện trợ kinh tế để “biến nông thôn thành chỗ dựa của ngụy quyền”135. Tiến tŕnh cơ giới hóa của nền nông nghiệp miền Nam được Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn phân tích: “Thông qua viện trợ Mỹ về nông nghiệp, chúng t́m cách tạo ra cảnh phồn vinh giả tạo, nhằm lừa mị nông dân, lôi kéo họ ra khỏi ảnh hưởng của Cách mạng”136. Phiên ṭa diễn ra theo thủ tục đặc biệt. Cho dù, “với bản chất ngoan cố, tên tư sản mại bản Lưu Trung t́m cách nói quanh co để che lấp phần nào tội trạng của y”137, nhưng mọi lập luận kể cả của bào chữa viên nhân dân đều bị “ṭa bác bỏ”.

    Những “tên tư sản mại bản” khác như Lư Sen, kinh doanh sắt thép, Trương Dĩ Nhiên, “nhập cảng và sản xuất phim ảnh đồi trụy phản động”… cũng đều lần lượt lănh án tù. Người dân Sài G̣n khi ấy mới chỉ nghe qua Marx-Lenin, chưa được trang bị “tŕnh độ lư luận” để hiểu về “tích lũy giá trị thặng dư thông qua bóc lột sức lao động”, để hiểu v́ sao một người mua bán máy nông cơ như Lưu Trung lại liên quan đến một âm mưu sâu xa “làm dư ra lực lượng lao động nông thôn để cho Chính quyền Sài G̣n bắt lính”.

    Chính quyền Cách mạng đánh giá: “Nh́n chung, các tầng lớp quần chúng cơ bản, tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ đều phấn khởi và tán thành việc đánh tư sản mại bản v́ ai cũng căm thù tầng lớp tư sản mại bản hại dân, hại nước”138.

    Những đánh giá ấy không dựa trên bất cứ một kết quả thăm ḍ dư luận nào mà chủ yếu căn cứ vào những phát biểu của lănh đạo Thành. Theo ông Mai Chí Thọ: “Trong giới nghèo lao động có dư luận bàn tán cộng sản lấy tiền nhà giàu cho nhà nghèo”139.

    Trước Chiến dịch X-2, chính quyền đă “bắt chín mươi hai tên tư sản mại bản đầu sỏ, đă mời ra làm việc bốn mươi bảy người. Đă có ba bỏ trốn và một tự sát” 140. Những ǵ mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê: “Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60 ngh́n tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 kư trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con ḅ, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt”141.

    Năm 1976, t́nh h́nh tiếp tục khó khăn. Một đợt “đánh tư sản” lại được tiến hành, lần này tập trung hơn vào giới tư sản người Hoa. Ngày 10-9-1976, vợ chồng nhà tư sản người Hoa, ông Đào Tắc Kinh, bị bắt “trong lúc đang dồn tiền và của quư vào 8 va li để chạy trốn”. Sáng sớm hôm ông Đào Tắc Kinh bị bắt, “các lực lượng quân đôị , an ninh vơ trang đă bắ t giữ nhiều tên tư sả n maị bản lũng đoaṇ, đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường” như Lư Hơn, Lâm Huê Hồ , Dương Hả i, Trang Triṇ h Nguyên, Mă Tuyên, Trầ n Thanh Hà , Trầ n Liêṭ Hồ ng, Lư Hấ n. Ngay sau khi bắt giữ các nhà tư sản, chính quyền lập tức trấn áp trên diện rộng về mặt dư luận.

    Sá ng 11-9-1976, hà ng ngà n ngườ i Hoa taị Chợ Lớ n đă được chính quyền huy động cho một cuộc biểu t́nh được báo chí mô tả là “sôi sục căm phẫn tố cáo tội ác của bọn tư sản mại bản bóc lột và yêu cầu Chính phủ bài trừ tận gốc”. Tối cùng ngày, gầm ba mươi cuộc mít tinh đă được tổ chức ở nhiều nơi trong thành phố.

    Sài G̣n lại được báo chí mô tả là “sôi sục khí thế cách mạng”.

    Chính một số người Hoa được báo chí dẫn lời cho rằng: “Bọn tư sản mại bản Hoa kiều càng giàu bao nhiêu thı̀ chúng tôi càng cơ cực bấy nhiêu. Phải trừ hết boṇ này, người Hoa mới có thể sống yên ổn và haṇh phúc”. Họ đ̣i “chánh quyền cách maṇg nghiêm khắ c trừng tri ̣boṇ tư sản maị bản luñg đoaṇ , đầu cơ tıćh trữ , phá rối thi ̣trường, làm giàu trên xương máu nhân dân”142. Những hoạt động quần chúng này, không chỉ lư giải cho các hành vi bắt bớ mà c̣n chuẩn bị dư luận cho một chính sách mới sắp sửa ban hành.

    “Thể hiện ư chí, t́nh cảm và nguyện vọng tha thiết của toàn dân ta”, trong kỳ họp thứ nhất khóa VI, “trên cơ cở hoàn toàn toàn thành bản báo cáo chính trị của đồng chí Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam”, Quốc hội chung cả nước đă khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: “Hoà n thà nh thố ng nhấ t nướ c nhà , đưa cả nướ c tiế n nhanh, tiế n maṇ h, tiế n vữ ng chắ c lên chủ nghıă xă hôị . Miề n Bắ c phả i tiế p tuc̣ đẩ y maṇ h sự nghiêp̣ xây dựng chủ nghıă xă hôị và hoà n thiêṇ quan hệ sả n xuấ t xă hôị chủ nghıă ; miề n Nam đồ ng thờ i tiế n hà nh cả i taọ xă hôị chủ nghıă và xây dựng chủ nghıă xă hôị ”143.

    Ngà y 25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đă kư “Tuyên bố của Chính phủ Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công thương nghiệp tư bả n tư doanh ở miề n Nam”. Theo tuyên bố này: “Chıń h phủ chủ trương xây dựng nề n kinh tế xă hôị chủ nghıă trong cả nướ c ta và tổ chứ c cho nề n kinh tế ấ y thố ng nhấ t trong cả nướ c; xó a bỏ dầ n dầ n nhữ ng sự khá c biêṭ của mỗi miề n: taọ ra nhữ ng cơ sở kinh tế cơ bả n cho nề n kinh tế đôc̣ lâp̣ , không bi ̣phụ thuôc̣ và o nướ c ngoà i; tổ chứ c laị lao đôṇ g và taọ ra môṭ sự phân phố i mớ i công bằ ng, bả o đả m đờ i số ng nhân dân, nhấ t là nhân dân lao đôṇ g; xó a bỏ moị bấ t công trong xă hôị và lố i là m ăn gian dố i, phi phá p”.

    Cho dù đ̣i “xó a bỏ tư sả n maị bả n và nhữ ng tà n dư bó c lôṭ phong kiế n” ở miền Nam, trong giai đoạn này, chính quyền vẫn chủ trương “sử dụng những nhà tư sản có vố n liế ng, có kỹ thuâṭ , nhữ ng ngườ i là m ăn riêng lẻ , cả nhữ ng ngườ i buôn bá n nhỏ ”. Thời gian đầu, các nhà tư sản nhỏ vẫn có thể tự ḿnh kinh doanh trong một số ngành nghề nhất định nhưng phải chuyển xác xí nghiệp của ḿnh thành công tư hợp doanh144. Chính phủ cũng đưa ra danh mục “các ngành nghề những nhà tư sản và tư nhân được kinh doanh”145 rất hạn chế.

    Theo bản tuyên bố này, những ngành buôn bán và kinh doanh dịch vụ đều phải “do nhà nướ c và cá c tổ chứ c quầ n chúng chiụ trá ch nhiêṃ”. Nhà nước bắt đầu độc quyền “nắm toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu, những nguyên liệu quan trọng trong nướ c và hầ u hế t hà ng hó a thiế t yế u”. Nhà nướ c sẽ “nắ m hầ u hế t xuấ t nhâp̣ khẩ u và cả bá n buôn trong nướ c”. Nhữ ng tư nhân là m thương nghiêp̣ “sẽ được choṇ loc̣ và sử duṇ g môṭ phầ n là m đaị lư cho mâụ dic̣ h quố c doanh; c̣ n nhữ ng ngườ i khá c, nhà nướ c sẽ giúp đỡ chuyể n sang sả n xuấ t”. Bản tuyên bố viết: “Dướ i chế độ ta, thà nh phầ n kinh tế quố c doanh giữ điạ vi ̣lănh đaọ . Đố i vớ i công thương nghiêp̣ tư bả n tư doanh, kinh tế quố c doanh có trá ch nhiêṃ hướ ng dẫn, giúp đỡ … đi dầ n từ ng bướ c lên chủ nghıă xă hôị thông qua con đườ ng cả i taọ ”.

    Bản tuyên bố ngày 25-9-1976 cũng nhấn mạnh: “Trước giờ phút vinh quang của Tổ quố c, cá c nhà tư bả n tư doanh hăy nhâṇ rơ nhiêṃ vụ lic̣ h sử lúc nà y, nhâṇ rơ con đườ ng phá t triể n tấ t yế u của dân tôc̣ ta, nhâṇ rơ tiề n đề xá n laṇ của Tổ quố c Viêṭ Nam, mà tiế p thu tố t sự cả i taọ xă hôị chủ nghıă ”. Đồng thời tuyên bố khuyến cáo: “Cùng vớ i nhân dân lao đôṇ g đi lên theo con đườ ng ấ y, cá c nhà tư bả n sẽ có cơ hôị tự cả i taọ mıǹ h trở thà nh ngườ i đứ ng trong hà ng ngũ đaị gia đıǹ h dân tôc̣ Viêṭ Nam. Đó là con đườ ng mở ra môṭ tương lai tố t đep cho bả n thân mıǹ h và cho con cháu”.

    Măi tới sáng 1-11-1976, tại Dinh Độc Lập lúc bấy giờ đă mang tên Hội trường Thố ng Nhấ t, Chính quyền mới tổ chức Hôị nghi ̣Liên tic̣ h Ủ y ban Măṭ trâṇ và cá c đoà n thể cấ p trung ương và thà nh phố để phổ biế n bả n tuyên bố ngày 25-9-1976. Không phải là những người cộng sản từ Hà Nội vào, đoàn chủ tịch hội nghị gồm: Luâṭ sư Nguyễn Hữ u Tho, khi ấy là phó chủ tic̣ h nướ c kiêm chủ tic̣ h Ủ y ban Trung ương Măṭ trâṇ Dân tôc̣ Giả i phó ng Miề n Nam Viêṭ Nam; Hoà ng Quố c Viêṭ , chủ tic̣ h Tổ ng Công đoà n Viêṭ Nam; Luâṭ sư Triṇ h Đıǹ h Thả o, chủ tic̣ h Ủ y ban Trung ương Liên minh cá c Lực lượng Dân tôc̣ , Dân chủ và Ḥ a bıǹ h Viêṭ Nam; Ḥ a thượng Thıć h Minh Nguyêṭ … Trưở ng ban Cả i taọ Công thương nghiêp̣ tư doanh Trung ương, ông Nguyễn Văn Trân, bı́ thư Trung ương Đả ng, người được bổ sung vào Trung ương Cục trước khi Sài G̣n sụp đổ, cũng có mặt trong hội nghị.

    Luật sư Nguyễn Hữu Thọ phát biểu: “Chính phủ đă đề ra chính sách hợp t́nh hợp lư đố i vớ i cá c nhà công thương nghiêp̣ tư bả n tư doanh, giúp cho họ thấ y rơ hơn con đườ ng tiế n lên của Cá ch maṇ g và taọ cho họ điề u kiêṇ đó ng gó p công sứ c cùng vớ i toà n dân xây dựng Tổ quố c Viêṭ Nam già u maṇ h, văn minh và haṇ h phúc, trong đó có quyề n lợi chıń h đá ng của họ và của con chá u họ”. C̣n Trưởng ban Cải tạo Nguyễn Văn Trân th́ ngắn gọn: “Bả n tuyên bố của Chıń h phủ đă mở ra môṭ tương lai tố t đep̣ , môṭ tiề n đề xá n laṇ cho các nhà tư sả n công thương nghiêp̣ ” 146.

    Từ ngày 21-11-1976, giới công thương chỉ phải “đăng kư kinh doanh công thương nghiêp̣ và dic̣ h vụ tư nhân”. Đến ngày 13-12-1976, 98% “cá c đơn vi ̣và hộ sả n xuấ t kinh doanh, dic̣ h vu”̣ đă khai trıǹ h và 93% số hộ nà y đă được chính quyền cấp quận “xét” cấp giấy chứng nhận “đă đăng kư kinh doanh”. “Nhiều người khai trıǹ h đúng đắ n (nhưng) cuñ g c̣ n khá nhiề u ngườ i, nhứ t là cá c hộ kinh doanh lớ n đề u khai trıǹ h thiế u, sai biêṭ xa vớ i tà i sả n họ có thâṭ . Môṭ số ngườ i tım̀ moị cá ch phân tá n tà i sả n nhiề u nơi, thâṃ chı́ có ngườ i dùng xe chở hà ng tẩ u tá n sang quâṇ khá c đă bi ̣bắ t quả tang cả ngườ i lẫn hà ng. Có ngườ i gây cả n trở , vu khố ng cá n bộ đi thẩ m tra hay dùng thủ đoaṇ mua chuôc̣ cá n bộ, trá o hà ng xấ u và o hà ng tố t”147.

    Chính quyền đă gia hạn việc “đăng kư” đến ngày 2-1-1977 và cảnh báo rằng: “Nhữ ng hộ nà o đă được chá nh quyề n kêu goị , giá o duc̣ lợi ıć h chung xây dựng đấ t nướ c mà … vẫn c̣ n tiế p tuc̣ nhiề u lầ n nhưng không thấ y có thá i độ chố ng đố i, giấ u diế m, phân tá n, không chiụ khai trıǹ h bổ sung là tự mıǹ h tá ch khỏ i hà ng ngũ nhữ ng nhà công thương chấ p hà nh đúng chá nh sá ch của Nhà nướ c và bi ̣coi là bấ t hợp phá p”148.

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương III: Đánh tư sản
    P2



    Sau khi kê khai, các hộ kinh doanh vẫn được cấ p giấ y chứ ng nhâṇ đă đăng kư kinh doanh và vẫn hoaṭ đôṇ g gần như bıǹ h thườ ng. Nhưng kể từ đây, ranh giới của một nhà tư sản dân tộc với “gian thương phá rối thị trường, phá hoại chủ trương” bắt đầu trở nên mong manh, nhất là đối với một số ngành kinh doanh “phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân”. Một trong những ngành chịu sự cải tạo sớm hơn và quyết liệt hơn là ngành giao thông vận tải.

    Trước 30-4-1975, tại các tỉnh phía Nam, số chủ xe là tư sản chuyên doanh vận tải ô tô chiếm 3,5%, chủ là tư sản khác kiêm kinh doanh vận tải ô tô là 1%, tiểu chủ hơn 95%. Ban Cải tạo Giao thông vận tải các tỉnh phía Nam từng đánh giá: “Trong lực lượng tiểu chủ, đại bộ phận có ḷng yêu nước, có cảm t́nh với Cách mạng, nhiều người đă là cơ sở tốt nuôi giấu cán bộ, chở người, chở vũ khí ra vào thành phố, ủng hộ vật chất cho Mặt trận Giải phóng. Chính lực lượng này theo lời kêu gọi của Mặt trận, sự huy động của Ủy ban Quân quản đă tự nguyện mang hàng trăm xe chở bộ đội, binh khí kỹ thuật, hậu cần cấp tốc hành quân truy kích địch ở phía Nam”149. Những công lao được ghi nhận này đă không giúp họ giữ được nghề nghiệp và xe cộ.

    Ngay từ đầu, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đă ra chỉ thị: “Công tác cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xă hội đối với lực lượng vận tải tư doanh ở miền Nam đang được triển khai và yêu cầu phải làm gấp”150. Một thứ trưởng của Bộ Giao thông được cử vào Nam và ngay sau đó, xe cộ, kể cả xe của các “quần chúng yêu nước”, đều bị sung công. Đây không chỉ là một chính sách riêng lẻ của chính quyền Việt Nam. Vận tải là ngành, theo Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, phải do nhà nước thống nhất quản lư.

    Từ tháng 2-1977 đến tháng 9-1978, Ban Cải tạo đă “trưng mua và mua, trưng thu và tịch thu” hầu hết phương tiện vận tải của tư nhân151. Nói là mua và trưng mua, nhưng thực chất, “giá xe do Nhà nước định trên thực tế chỉ tương đương với 1% giá thật. Đă vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không c̣n ở công ty, hoặc đă chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết th́ khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô”152.

    Trước ngày 30-4-1975, ông Trần Văn Thành153 là chủ xe ca chạy tuyến miền Trung. Cuộc sống gia đ́nh ông được mô tả là “thường ăn cơm tiệm và cuối tuần thường đi mua sắm”. Sau “giải phóng”, gia đ́nh ông phải vạ vật trong những chuổi ngày khó khăn: “Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy nhường nhau bát cơm độn, ông Thành xách túi ra xe kéo theo cái nh́n lo âu và tiếng thở dài của người thân. Bởi cái xe của ông quá cũ nát không an toàn khi bắt buộc phải chở quá tải trên những đoạn đường trường, bởi chắc chắn ông sẽ phải cố t́m một vài mặt hàng lậu để bù vào tiền xăng dầu, bơm vá”154.

    Nhưng sự thiếu thốn chưa phải là tất cả những ǵ mà những người kinh doanh trong ngành phải chịu đựng. Từ lái xe, năm 1973 ông Thành mua được một chiếc xe ca trị giá 3,5 triệu đồng155. Nếu thời cuộc không thay đổi, công việc kinh doanh thuận lợi có thể giúp ông Thành lập được một hăng xe. Nhưng cũng như các chủ xe khác, ông Thành đă phải “bán” xe cho Nhà nước. “Bán xe xong, ai biết lái xe th́ được nhận làm công nhân của công ty. Lái theo chuyến, ăn luơng theo quy định. Ai không biết lái xe th́ coi như mất xe… Có những ông chủ hăng xe 30-40 chiếc, cai quản hàng trăm lái, phụ xe, sau cải tạo muốn quá giang 30-40km nếu không mua được vé th́ vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe xin măi mới được làm phụ xe, rồi c̣n bị anh lái xe ḿnh thuê ngày xưa mắng mỏ mỗi khi trái ư”156.

    “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”

    Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có nhất miền Nam th́ sau năm 1975, nền kinh tế vẫn c̣n cơ hội để hồi sinh. Nhưng, hai năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch mới được gọi là “Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông Đỗ Mười triển khai với “bàn tay sắt”.

    Lư do của đợt cải tạo này được nói trong Thông báo ngày 23-3-1978 của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: “Các nhà tư sản thương nghiệp, bằng hoạt động đầu cơ, buôn bán chợ đen, tích trữ hàng hóa và tiền mặt đă lũng đoạn kinh tế và thị trường, nâng giá hàng hóa bán ra, phá rối việc thu mua của nhà nước, gây cảnh hỗn loạn thị trường để làm giàu bất chính, thậm chí tung hàng giả ra thị trường để gạt gẫm và bóc lột người tiêu dùng. Họ dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt móc hàng của xí nghiệp, kho tàng nhà nước, ăn cắp những bí mật kinh tế quốc gia, nhằm đục khoét kinh tế xă hội chủ nghĩa đang bước đầu xây dựng và làm hư hỏng một số cán bộ nhân viên nhà nước, rồi qua đó mà nói xấu chế độ”157. Cơ sở pháp lư của đợt “cải tạo thương nghiệp tư bản chủ nghĩa”, được nói là theo Quyết định số 100 CP ngày 12-4-1977, nhằm “xây dựng nền thương nghiệp xă hội chủ nghĩa” theo hướng “chấm dứt kinh doanh thương nghiệp của các nhà tư sản, chuyển các nhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất”.

    Trước đây, khi Trưởng Ban Cải tạo Xă hội Chủ nghĩa Trung ương Nguyễn Văn Linh gặp giới công thương, “nhiều anh chị em công thương” khi phát biểu ư kiến, đă “hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Thậm chí có những ư kiến đă “nói lên những tồn tại của giới công thương”, chỉ trích “một số nhà công thương c̣n theo lối kinh doanh cũ, vi phạm các chính sách luật lệ của chính quyền cách mạng”. Lần ấy, sau khi “nêu lên chính sách đúng đắn, có t́nh, có lư của đảng và nhà nước”, ông Nguyễn Văn Linh đă “kêu gọi các nhà công thương… ra sức cải tạo bản thân, đem hết khả năng và những hiểu biết của ḿnh để tham gia xây dựng tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xây dựng thành công chủ nghĩa xă hội”158. Sau hai ngày làm việc ấy, ông Linh “hẹn sẽ có dịp nói chuyện” một cách đầy đủ hơn về chính sách cải tạo.

    Nhưng bản thân ông Nguyễn Văn Linh cũng chưa h́nh dung được ư đồ cải tạo của ông Lê Duẩn. Đầu năm 1978, chức trưởng Ban Cải tạo mà ông Linh đang nắm giữ được Tổng Bí thư Lê Duẩn trao lại cho ông Đỗ Mười. Ngày 16-2-1978, sau khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng kư “Chỉ thị 115”, ông Đỗ Mười đưa quân tập kết vào Sài G̣n để bắt đầu kế hoạch.

    Sáng 23-3-1978, khi người dân Sài G̣n chưa kịp thức dậy th́ trước những cửa tiệm, lớn có, nhỏ có, đă lố nhố từng tốp thanh niên, mặt mày nghiêm trọng. Họ chỉ chờ chủ nhà thức dậy là ập vào, kiểm kê, niêm phong hàng hóa và bắt đầu chốt giữ. Đêm hôm trước, toàn bộ lực lượng thanh niên đă được Thành đoàn huy động: sinh viên các trường đại học th́ nghỉ học, công nhân trong các nhà máy th́ nghỉ làm, những người chưa có công ăn việc làm th́ được phường trưng dụng.

    Cũng trong buổi sáng hôm đó, các báo cho đăng Quyết định 341/QĐ-UB của Ủy Ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, công bố năm điều quan trọng của chính sách cải tạo: Đ́nh chỉ mọi hoạt động kinh doanh thương nghiệp của tư nhân; ra lệnh kiểm kê hàng hóa tồn kho; cấm các nhà tư sản làm nghề buôn bán và “khuyến khích” họ chuyển sang sản xuất159.

    Người kư Quyết định 341, ông Vũ Đ́nh Liệu160, thừa nhận: “Quyết định được kư nhân danh Ủy ban, lực lượng nói là của Thành phố, nhưng ṇng cốt là Trung ương đưa vô, kế hoạch Trung ương đưa vô. Ở cấp Thành phố cũng có Ban Cải tạo nhưng từ thành phố cho tới quận huyện đều có người được ông Đỗ Mười đưa từ Hà Nội vào. Họ mới là người đưa ra quyết định. Đau xót nhất là họ cứ theo tiêu chí tư sản Hà Nội để áp dụng cho Sài G̣n. Quy sai thành phần đă khiến cho cải tạo trở thành cuộc chiến trên diện rộng”161.

    Theo ông Nguyễn Văn Trân, viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương: “Khi bắt đầu chiến dịch, Bộ Chính trị chuyển anh Nguyễn Văn Linh sang làm Dân vận rồi đưa anh Đỗ Mười vào v́ anh Đỗ Mười đă làm cải tạo công thương nghiệp ở Hà Nội. Anh Mười vào Sài G̣n áp dụng y chang những ǵ đă làm ở miền Bắc trong năm 1960”. Theo ông Hoàng Tùng: “Năm 1955, khi đánh tư sản ở Hải Pḥng, Đỗ Mười cũng cho xóa sạch”. Ông Hoàng Tùng thừa nhận là thoạt đầu ông đă cùng ông Đỗ Mười vào Nhà khách Trung ương tại Sài G̣n (T78), viết bài ủng hộ chiến dịch này, nhưng sau thấy Đỗ Mười đánh cả tiểu thương ông bỏ về. Ông Mười hỏi: “Sao về?”. Hoàng Tùng nói: “Tôi theo anh, tôi sa lầy”.

    Trong suốt thời gian đặt “Tổng hành dinh” tại Thủ Đức, ông Đỗ Mười ít khi xuất hiện công khai. Nhưng quyền lực của ông là bao trùm và cách mà ông tiến hành th́ cứng nhắc đúng như những giai thoại về ông lúc đó162. Theo ông Đỗ Hoàng Hải, đại biểu Quốc hội Khóa IX, người được phân công “phát động giai cấp công nhân tham gia” lực lượng cải tạo: Cứ “đánh” xong ngành nào th́ các ngành tương ứng từ Trung ương – phần đă vào từ trước, phần mới vào theo ông Đỗ Mười – lập tức nhảy vào tiếp quản. Ví dụ Bộ Công nghiệp nhẹ tiếp quản ngành Dệt; Bộ Giao thông tiếp quản các cơ sở liên quan đến xe cộ, bến cảng; Liên hiệp Công đoàn Giải phóng th́ tiếp quản số 14 Cách Mạng Tháng Tám, nơi vốn là trụ sở Liên đoàn Lao động của Trần Quốc Bửu.

    Ông Đỗ Hoàng Hải nói: “Lực lượng công nhân do tôi chỉ huy lúc đó hết sức phấn khởi v́ Thành ủy dành 35% quỹ nhà cải tạo chia cho giai cấp công nhân, coi như đó là một chính sách lớn của Đảng đối với thành phần ṇng cốt. Ngày cao điểm, chúng tôi huy động tới 3000 công nhân, sáng ra phát cho mỗi người một ổ bánh ḿ rồi khi có lệnh là lên xe đến ‘chốt’ nhà của ‘tư sản’. Trước đó, những lực lượng khác đă xộc vào các cửa hàng, phát hiện, kê biên hàng hóa, đồng thời ‘đấu tranh chống các hành vi xấu”.

    Cán bộ làm công tác cải tạo được mô tả: “Đă nhă nhặn, đúng mực, nhưng rất cương quyết, dứt khoát, trong sạch; đă làm thất bại một số vụ mua chuộc xấu xa của giai cấp tư sản. Nhiều công nhân lao động chẳng những phát hiện các hộ tư sản thương nghiệp lọt sổ, tố giác các kho hàng cất giấu, mà c̣n cương quyết từ chối và đấu tranh chống lại hành động hối lộ của một số hộ tư sản”163.

    Một nhân viên cải tạo từ chối nhận hối lộ đă được Ban Chỉ đạo “thông báo cho toàn quận và được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản vào tối ngày 26-3-1978 ngay tại nơi cô tham gia công tác cải tạo”. Người dân cũng được phát động để “kịp thời phát hiện, phê phán, đấu tranh, tố giác, chống những hành vi xấu như hối lộ, tẩu tán hàng hóa, tuyên truyền xuyên tạc, chia rẽ của một số hộ tư sản không thức thời”164.

    Hầu như không có chống đối, chỉ một số tư sản người Hoa phản ứng ở mức thăm ḍ. Vào lúc 7 giờ sáng ngày 23-3-1978, khi xuống một phường ở Quận 5, ông Mai Chí Thọ được báo cáo: “Nhiều nhà tư sản biết trước lệnh cải tạo đă khóa cửa bỏ đi, cán bộ tới không có chủ nhà để đưa lệnh kiểm kê tài sản”. Ông Mai Chí Thọ suy nghĩ rồi ra lệnh: “Cho niêm phong tất cả cửa ra vào, cho một tổ chốt trước nhà những người đi vắng. Thông báo cho họ một thời hạn, nếu không tự giác th́ các đồng chí cứ cho phá cửa vào lập biên bản”165. Trừ một số trốn đi luôn, phần lớn đă trở về chịu để chính quyền kê biên tài sản.

    Tại Sài G̣n, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn ngày đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những tháng sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600 “tiểu thương và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quư. Có những gia đ́nh tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo t́m được, khui ra, vàng chất đầy trên chiếu.

    Những năm sau 1975, cứ mỗi khi có một thành phần nào đó trong xă hội trở thành đối tượng của Chính quyền, lại có một thành phần khác, gọi là quần chúng, được đưa đứng ra lên án. Chín mươi hai nhà tư sản mại bản vừa bị đánh vào rạng sáng ngày 10-9-1975 th́ sáng hôm sau, 11-9-1975, đă có “1.200 nhà tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ mở đại hội bất thường” tại rạp Rex để “bày tỏ quyết tâm bài trừ bọn tư sản mại bản, đầu cơ tích trữ, lũng đoạn, phá rối thị trường”166.

    Thậm chí, “giới người Hoa tỏ ư muốn Chánh quyền công bố đầy đủ danh sách và tội trạng của tất cả các tên gian thương đă bị sa lưới. Giám đốc một xí nghiệp tại Chợ Lớn (xin giấu tên) là người Hẹ, cho biết, theo ông nên tịch thu toàn bộ tài sản của bọn gian thương, đem xử công khai trước nhân dân và cho bọn này đi cải tạo lao động lâu dài để chúng biết giá trị của lao động”. Ông giám đốc người Hẹ này khi ấy chắc không ngờ có ngày ḿnh cũng trở thành đối tượng của “nhân dân lao động”.

    Hai gia đ́nh tư sản

    Tuy không sơ khai như thời kỳ Cải cách ruộng đất, nhưng phương thức “đấu tranh giai cấp” của thế hệ cộng sản sau năm 1975 cũng có những điểm tương đồng. Ngay từ tháng 9-1975, Đoàn Thanh niên Cộng sản đă “đánh tư sản mại bản” bằng chính tiếng nói của con cái các nhà tư sản.

    Trên báo Tuổi Trẻ, Anh Thanh Tùng, một học sinh người Hoa học lớp 12, trường Lư Phong, nói: “Bản thân tôi thấy rơ chính sách của chính phủ là đánh bọn gian thương bóc lột nhân dân chứ không đánh vào người Hoa. Tư sản mại bản đầu cơ tích trữ th́ dù là Việt hay Hoa đều có tội với nhân dân, là kẻ thù của nhân dân”. Ôn Đường, học sinh lớp 9 trường Việt Tú, th́ cho rằng: “Chúng ta phải phát động quần chúng đứng lên tiêu diệt bọn gian thương”. C̣n Lư Mỹ, học sinh lớp 10, trường Lư Phong, th́ nói: “Tôi nghĩ rằng những nhà tư sản nào muốn hợp tác với chính quyền cách mạng để xây dựng kinh tế th́ đó là điều tốt. Nhưng phải tiêu diệt bọn tư sản mại bản, có như thế mới ổn định đời sống nhân dân”167.

    Năm 1978, thay v́ chỉ tuyên bố, Lư Mỹ, con gái một nhà tư sản người Hoa, vừa trở thành đoàn viên, đă dẫn các “đồng chí” của ḿnh vào nhà, chỉ cho họ những tài sản mà cha mẹ ḿnh đang cố giấu. Cô được ca ngợi trên báo chí: “Hai năm qua đất nước ta chuyển ḿnh đi lên chủ nghĩa xă hội, cũng như nhiều bạn trẻ khác, Lư Mỹ đă ḥa ḿnh trong ngọn lửa triều thời đại ấy”168. Chính Lư Mỹ cũng viết trên trang đầu tiên của nhật kư: “Hăy đấu tranh để giành hạnh phúc”. Nhưng qua những ḍng ghi chép của cô, cuộc đấu tranh ấy không chỉ mang về hạnh phúc169.

    Lư Mỹ thuộc thế hệ trưởng thành trong khuôn viên Thành đoàn170, đọc Pavel Korchagin và được nghe các nhà lư luận từ miền Bắc vào giảng giải luận điểm của Marx về kinh tế. Một bên là những niềm tin mới của cô về một xă hội tốt đẹp, một bên là kế sinh nhai của gia đ́nh. Từ tháng 6-1977, khi cải tạo chưa bắt đầu, Lư Mỹ đă phải “nuốt nước mắt” để thuyết phục cha mẹ ḿnh nghe theo những ǵ cô được Đoàn dạy bảo. Lư Mỹ nói với má: “Sống như vậy con thấy phi pháp quá”. Gia đ́nh Lư Mỹ khi ấy có một cửa hàng kinh doanh vải trên đường Cách Mạng Tháng Tám. Khi Nhà nước “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”, Lư Mỹ đang là học sinh lớp 12C, trường Trần Khai Nguyên. Ngày 23-3-1978, khi “nhiều toán thanh niên đóng chốt ở những cửa hàng lớn” trên con đường mà cô đi qua, Lư Mỹ viết: “Rồi đây cuộc sống sẽ trở nên phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ trở nên dễ chịu hơn khi những ung nhọt của một cơ thể đă được giải phẫu từ ngày hôm nay – ngày mở đầu một cuộc đấu tranh lớn”.

    Trong những ngày sau đó, Lư Mỹ đă “bám từng giây, từng phút để vận động gia đ́nh kê khai tài sản”. Báo Tuổi Trẻ theo sát, tường thuật từng lời nói, hành động của cô. Cái ngày mà toàn bộ gia sản của gia đ́nh bị kê biên, Lư Mỹ đă không giấu được niềm vui hoàn thành nhiệm vụ: “Mỹ kêu mẹ đi ngủ để ḿnh làm công việc kê khai cùng với toán công tác đang chốt tại đấy. Đêm 24-3-78, Mỹ thức đến ba giờ khuya – không phải để thao thức, trăn trở trong sự khổ sở – mà để sao bốn bản kê khai trong một sự vui sướng tràn trề. Ḷng Mỹ rộn ràng như lần đầu tiên biết ḿnh được đứng vào hàng ngũ của Đoàn” 171.

    Cuốn Nhật kư của Mỹ khép lại vào lúc 3 giờ sáng ngày 25-3-1978: “Má đă yên tâm rồi. C̣n ḿnh lại càng yên tâm hơn khi gia đ́nh ḿnh đă chấm dứt quá khứ từ ngày hôm qua để chuẩn bị bước vào tương lai. Ḿnh không c̣n mặc cảm với bạn bè, nhân dân lao động v́ gia đ́nh ḿnh không c̣n sống bằng nghề bất chính. Ḿnh đă đấu tranh, đă thực hiện được lư tưởng, ước mơ của ḿnh. Hăy cất cao tiếng hát, hăy tiến lên. Không có ǵ có thể ngăn cản được bước tiến của ḿnh. Ḿnh trở lại phấn khởi rồi, vui quá!”. Nhưng điều mà lúc ấy Lư Mỹ tưởng là niềm vui, rồi sẽ khoét vào ḷng cô một như vết thương – một vết thương không bao giờ có khả năng khép lại.

    Cho dù được báo Nhân Dân172 ca ngợi, được đoàn viên từ khắp nơi trong cả nước viết thư thăm hỏi, động viên và bày tỏ ḷng ngưỡng mộ, Lư Mỹ cũng chỉ là một sản phẩm hy hữu của Thành đoàn. Con cái của các nhà tư sản khác, trong những ngày ấy, đă bị buộc phải trưởng thành để cùng cha mẹ bảo vệ tài sản gia đ́nh trước nguy cơ cải tạo. Gia đ́nh ông Vơ Quang Trữ, một trong những người giàu có ở Sài G̣n lúc bấy giờ, là một ví dụ.

    Năm 1960, ông Trữ đưa gia đ́nh di cư từ Quảng Nam vô Sài G̣n. Thời gian đầu, chồng làm thư kư cho một công ty, vợ làm thợ dệt. Khi đó, xứ Bảy Hiền c̣n rất hoang sơ. Chỉ một thời gian ngắn sau, ông Vơ Quang Trữ cùng một số người di cư bàn bạc khôi phục nghề dệt của Quảng Nam. Bắt đầu là dệt, kế tiếp là hồ, rồi tiến tới buôn bán hàng tơ sợi. Từ tay trắng, họ nhanh chóng trở thành những người giàu nhất.

    Sáng 30-4-1975, giữa khi súng đạn vẫn c̣n đùng đoàng, ông Trữ đă chở con bằng xe Vespa từ nhà riêng ở 177C Lư Thường Kiệt lên Bảy Hiền lấy gần một trăm lá cờ Giải phóng về phân phát cho hàng xóm. Nhưng sự hào hứng này của ông không kéo dài được bao lâu. Một hôm đi làm về, ông thấy, tấm biển “trụ sở công an phường” tự nhiên được treo lên trước một ngôi nhà của ḿnh ở Bảy Hiền. Khi ông đi vắng, mấy người “Cách mạng 30-4” mang bảng tới, nói: Chúng tôi muốn dùng tầng trệt làm trụ sở công an, rồi treo lên mà không chờ chủ nhà đồng ư.

    Sau Chiến dịch X-2, quan sát bạn bè bị “đánh tư sản mại bản”, ông Trữ đi trước một bước bằng cách đưa nhà máy với hơn 5.000 công nhân của ḿnh “hiến” cho Nhà nước dưới danh nghĩa lập xí nghiệp “công tư hợp doanh”173, rồi nhận chức phó giám đốc trong nhà máy của ḿnh theo sự phân công. Một số lớn máy móc và tiền bạc khác được ông Trữ đưa về quê, xây thêm hai nhà máy công tư hợp doanh, rồi hiến cho Đà Nẵng.

    Ngay trong ngày 23-3-1978, một tổ cải tạo năm người đă đến chốt trước tiền sảnh ngôi nhà số 57 Hồ Tấn Đức nơi gia đ́nh ông Trữ đang cư ngụ. Họ ở đó hai đợt, tổng cộng sáu tháng. Vơ Quang Dũng, con trai ông Trữ, sinh năm 1964, kể: “Hàng ngày bắt đầu từ sáng sớm, họ thẩm vấn từng thành viên trong nhà, lặp đi lặp lại gần như chỉ một câu: tiền vàng giấu ở đâu?”. Không ai, kể cả vợ con, biết vàng ông Trữ giấu ở đâu. Gần như không có một viên gạch nào ở trong nhà là không bị cạy lên. Nhưng những mưu sâu kế dày mà trước đây các gia đ́nh Cách mạng đă dùng để qua mặt cảnh sát Sài G̣n, nuôi giấu cán bộ, giờ đây được chính nhân dân áp dụng một cách triệt để thoát khỏi Chính quyền Cách mạng.

    Ngay từ rất sớm, ông Trữ đă có các phương án đề pḥng. Ngày 26-11-1975, một toán năm tên cướp có vũ khí đột nhập vào ngôi nhà 177C Lư Thường Kiệt của ông, bắn chết bà mẹ già tám mươi tuổi. Vợ ông khi đó đang bị tai nạn, nằm trên giường, chứng kiến cuộc đấu súng kéo dài giữa công an và tên cướp cố thủ trong nhà cho đến khi hắn ta bị công an bắn hạ. Sau đó, ông Trữ quyết định chuyển nhà lên Bảy Hiền. Chính trong thời gian xây nhà 57 Hồ Tấn Đức ở vùng Bảy Hiền, ông Trữ đă cho làm hai căn hầm bí mật có nhiều tầng: một dưới gầm cầu thang, một ngay dưới bàn ăn gia đ́nh. Hơn mười ngh́n lượng vàng đă được ông xếp trong những lon guygoz, bọc giấy dầu rồi xếp xuống hầm.

    Quan sát thấy lực lượng cải tạo chỉ khám người, túi xách của hai vợ chồng ông Trữ và của người giúp việc chứ không khám người mấy đứa con – đặc biệt là hai đứa trẻ: Vơ Quang Dũng, mười bốn tuổi; Vơ Thị Anh Đào, mười hai tuổi – ông Trữ bắt đầu cho thực hiện kế hoạch. Mỗi đêm, ông mang lên khoảng năm mươi lượng vàng. Tới giờ đi học, ông cho vàng vào ruột tượng, buộc ngang bụng Dũng và Đào, rồi để các con tự đi ra ngoài.

    Vơ Quang Dũng kể: “Chúng tôi bị tước mất tuổi thơ từ đó. Vốn là những đứa trẻ vô tư, nhưng hàng ngày hai anh em đều phải đóng kịch, giả vờ vui vẻ ra khỏi nhà, khi th́ với quả bóng, khi th́ với một món đồ chơi, để qua mặt tổ cải tạo đang đứng canh trước cửa. Từ cổng, khi th́ xích lô, khi th́ taxi, khi th́ một bác xe ôm đứng đón. Họ chở tôi đi một đường, em gái tôi đi một đường. Mỗi ngày, chúng tôi đi đến một địa điểm mà ba tôi cho biết chỉ vài phút trước khi ra khỏi nhà. Ở đó, một người được ba tôi đặc biệt tin cẩn và huấn luyện trước đă chờ sẵn, đón chúng tôi, nhận hàng rồi đi ngay lập tức”.

    Công việc vận chuyển vàng ra khỏi nhà trước mắt lực lượng cải tạo trong suốt sáu tháng trời đă khiến cho cha con ông Vơ Quang Trữ trở thành những người có vẻ ngoài lạnh lùng. Năm 1979, anh em Dũng vượt biên không thành trở về, gặp nhau ngoài ngơ nhưng cha con chỉ khẽ gật đầu như vừa đi đâu đó ngoài đường về. Măi tới khi vào bên trong nhà, ông Trữ mới ôm lấy các con và cả mấy cha con cùng bật khóc.

    Kinh tế mới

    Không chỉ bị “tước đoạt tài sản”, các nhà tư sản c̣n bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xă hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10-4-1978, trên báo Sài G̣n Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng “hỏi-đáp”, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.

    Các nhà tư sản thương nghiệp bị phê phán là chỉ biết “làm giàu, ăn chơi phè phỡn, bóc lột người lao động và ăn cắp của nhà nước, coi khinh lao động và nói xấu chế độ” trong khi “ba năm qua trên 700.000 nhân dân lao động hồi hương lập nghiệp”174. “Về những hành vi tội lỗi đó, nhân dân lao động và chính quyền cách mạng đă không bắn giết, không bắt giam, không đày ải, không đấu tố, không tịch thu mặc dù có đầy đủ sức mạnh và lư lẽ để làm như vậy. Nhân dân lao động và chính quyền chỉ buộc họ chấm dứt những hành vi đó, chấm dứt triệt để và vĩnh viễn… Không những các nhà tư sản thương nghiệp phải chuyển sang sản xuất nông nghiệp, nghề cá, nghề rừng là chuyển về các tỉnh, mà cả sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cũng chuyển về các tỉnh, theo sự bố trí màng lưới công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở địa phương”175.

    Hai ngày sau khi báo Đảng đăng bài “hỏi-đáp” này, một cuộc “hội thảo” kéo dài hai ngày, 12 và 13-4-1978, với sự tham gia của “hơn 200 trí thức” đă được chính quyền tổ chức. Phát biểu trong “hội thảo” 176, Bác sỹ Lê Cửu Trường nói rằng: “Lề lối kinh doanh tư bản chủ nghĩa không thể tiếp tục kéo dài trong một xă hội đang tiến lên con đường xóa bỏ chế độ người bóc lột người”. Ông Phương Kiến Khánh, người được giới thiệu là đang công tác ở Phân Viện Nghệ thuật, cho rằng: “Chuyển các nhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất là trả họ về với thiên chức con người, là giải phóng họ khỏi kiếp ăn bám, bóc lột”.

    Tối 17-4-1978, tại sân vận động Thống Nhất, “40.000 công nhân viên chức đại biểu cho gần nửa triệu công nhân lao động” đă “hưởng ứng chủ trương xóa bỏ kinh doanh của các tư sản thương nghiệp”. Phát biểu trên sân vận động Thống Nhất, Chủ tịch Vũ Đ́nh Liệu nói: “Chúng ta đang ở trong giai đoạn đấu tranh giai cấp có phần gay gắt và cuộc đấu tranh vẫn c̣n tiếp tục”177.

    Ngày 10-6-1978 là “hạn chót để các nhà tư sản thương nghiệp rời thành phố đi sản xuất”. Chính quyền ca ngợi những người tích cực đăng kư các chương tŕnh kinh tế mới nhưng đồng thời cũng nói với họ rằng: “Đây là một chính sách lớn… nhằm giúp các nhà tư sản tự giải thoát khỏi con đường bóc lột, biến họ từ một lực lượng phi sản xuất gây tác hại cho xă hội thành một lực lượng sản xuất có ích cho xă hội”178. Không ít nhà tư sản được trích lời trên báo nói, họ chuyển sang sản xuất là để “tẩy rửa cái mặc cảm bóc lột tội lỗi” của ḿnh. Nhưng, như phát biểu của ông Vũ Đ́nh liệu, “cuộc đấu tranh giai cấp” diễn ra ở bên trong từng gia đ́nh đúng là đang “có phần gay gắt”.

    Nhật kư ngày 8-6-1978 của Lư Mỹ cho thấy không khí trong gia đ́nh cô “thật lạ và căng thẳng”. Ba cô tuyên bố “sẽ đi kinh tế mới” nhưng giọng nói của ông làm cho cô “nghi ngờ”. Cũng như nhiều gia đ́nh tư sản, đặc biệt là tư sản người Hoa khác, gia đ́nh Lư Mỹ biết rơ, “kinh tế mới là nơi đày ải, đầy khó khăn gian khổ không thể nào sống được”. Phần lớn các nhà tư sản sau đó đă vượt biên. Nhật kư của Lư Mỹ viết: “Cùng gia đ́nh bỏ trốn hay ở lại. Tôi nghĩ, tôi phải can đảm lên, chấp nhận đấu tranh và mất mát, tôi sẽ không trốn đi nơi nào cả. Nếu gia đ́nh không lay chuyển, tôi bằng ḷng ở lại sống cô đơn, không tài sản của cải ǵ của cha mẹ để lại, tôi sẽ gặp vất vả, khó khăn và sóng gió. Đồng chí Paven ơi, nỗi khổ và sự phấn đấu của tôi có nghĩa ǵ so với đồng chí”179.

    Ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác ǵ đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn.

    Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn”.

    Ngay trong thời gian đang cải tạo, những cuộc tranh căi nổ ra gần như thường xuyên giữa ông Vơ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh với ông Đỗ Mười. Nhưng khi ấy Đỗ Mười đang nắm trong tay “thượng phương bảo kiếm”. Ông Vũ Đ́nh Liệu thừa nhận: “Họp Thường vụ chúng tôi cũng có ư kiến, đi cơ sở về chúng tôi cũng có ư kiến, nhưng bị bên anh Đỗ Mười cự”180. Tuy tranh căi phương thức, nhưng cả ông Vơ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh vẫn thống nhất với ông Đỗ Mười về chủ trương. Ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu tôi nhận thức, cải tạo là chuyện tất yếu và coi như đó là con đường để đi lên chủ nghĩa xă hội. Cho tới lúc ấy, tôi chỉ đi các nước Đông Âu, thấy cuộc sống của họ so với ḿnh đă là những ǵ mà ḿnh ước mơ. Tôi nghĩ, phải kinh qua những bước như ḿnh đang làm bây giờ mới có ngày đạt được như những ǵ họ có”. Nhưng rồi khi nh́n cả thành phố vốn là một trung tâm thương mại trở nên tiêu điều, tan hoang, nhất là khi nh́n thấy chính những ân nhân của cách mạng cũng trở thành nạn nhân, những người đă từng bám trụ ở miền Nam, ở Sài G̣n bắt đầu nh́n lại những ǵ mà ḿnh đang thực hiện.

    Khi ông Đỗ Hoàng Hải mới về 14 Cách Mạng Tháng Tám chuẩn bị “cải tạo tư sản”, ông Trần Văn Đước – một cơ sở đă từng nuôi giấu và cứu mạng ông Hải trong Mậu Thân 1968 – ngày nào cũng nấu cơm rồi cho người mang sang. Cũng như trong chiến tranh, ông Đước không biết rơ ông Hải đang làm ǵ, chỉ giúp đỡ v́ biết ông Hải là người “bên Cách mạng”. Khi ông Trần Văn Đước chạy đến báo: “Bác bị người ta mang xe tới chở hết kiếng đi rồi”, ông Hải vẫn tưởng rằng: “Chắc là có sự nhầm lẫn”.

    Con trai ông Trần Văn Đước là liệt sỹ. Tiệm kiếng của ông mở tại nhà riêng ở số 12 Ngô Tùng Châu chỉ là một ngôi nhà cấp 4, chiều ngang bốn mét, dài mười bốn mét, tường gạch, lợp ngói. Nhưng ông Đước vẫn bị quy vào diện tư sản thương nghiệp, kiếng hàng hóa và cả nhà riêng của ông đều bị “sung công”. Không chỉ có trường hợp ông Trần Văn Đước. Năm 1957, ông Lai Ninh đă bất chấp nguy hiểm tới tính mạng, lái xe đưa ông Lê Duẩn đào thoát sang Phnom Penh trong sự truy lùng gắt gao của Chính quyền Sài G̣n. Năm 1978, khi ông Lê Duẩn đưa ông Đỗ Mười vào Nam, nhà máy xay lúa của gia đ́nh ông Lai Ninh đă bị sung công. Con gái ông, bà Lai Kim Dung, một tư sản người Hoa, cũng bị xếp vào thành phần cải tạo. “Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” ở miền Nam, tiến hành từ sau 1975, đă cải tạo 3.560 cơ sở tư bản tư doanh công nghiệp, trong đó có 1.354 cơ sở của tư sản mại bản bị công hữu hóa, tịch thu, 498 cơ sở bị chuyển thành công tư hợp doanh; chuyển 5.000 tư sản thương nghiệp sang sản xuất; chuyển chín vạn tiểu thương sang sản xuất; sử dụng 15.000 người vào mạng lưới thương nghiệp xă hội chủ nghĩa. Sau Cải tạo, dưới dạng kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh, Nhà nước nắm: 100% ngành năng lượng; 45% ngành cơ khí; 45% ngành xay xát lương thực; 100% ngành bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc lá; 45% trong các ngành chế biến đường, dầu thực vật; 60% ngành dệt; 100% ngành sản xuất giấy; 80% ngành sản xuất bột giặt, xà pḥng. Thương nghiệp quốc doanh nắm 80% nguồn hàng công nghiệp; 92% số xă trên toàn miền Nam có hợp tác xă mua bán181.

    Trước khi cải tạo công thương nghiệp tư doanh, nhà nước đă t́m mọi cách để tập trung mọi nguồn hàng vào tay ḿnh. Không chỉ có sản phẩm của các xí nghiệp quốc doanh phải tiêu thụ qua thương nghiệp của nhà nước, “các xí nghiệp tư bản, các hợp tác xă, các tập đoàn và cơ sở sản xuất thủ công, cá thể, được nhà nước cung cấp lương thực, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, điện; cho vay vốn… (cũng) phải bán sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh”182. Chính quyền tin rằng: “Ngành thương nghiệp xă hội chủ nghĩa là cơ quan hậu cần của toàn dân, là người nội trợ của toàn xă hội”183. Chẳng bao lâu sau, niềm tin này sẽ nhanh chóng tan thành mây khói.

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương IV : Nạn Kiều




    http://hosytan.wordpress.com/2012/12...g-iv-nan-kieu/



    Nạn Kiều : Sự thật về vấn đề người Hoa năm 1978 (Đội quân thứ năm/ Hiệp định Geneve/ “chổi ngắn không quét xa”/ Hoàng Sa/ Sợ “con ngựa thành Troy”/ ‘Nạn Kiều”/ “Phương án II”/ “Ban 69”/ Vụ Cát Lái).



    Năm 1978, Hà Nội phát hiện Bắc Kinh hậu thuẫn cho Pol Pot quấy phá biên giới Tây Nam. Hơn một triệu người Hoa ở Việt Nam đă trở thành mối lo “con ngựa thành Troy” cho một cuộc chiến tranh khi ấy được tin là không tránh khỏi. Ba “phương án” đưa người Hoa ra khỏi Việt Nam đă được triển khai. Bắc Kinh tố cáo Việt Nam gây ra vụ “nạn Kiều”. Việt Nam tố cáo Bắc Kinh “kích động”. Ở giữa “hai làn đạn”, cộng đồng người Hoa ở Việt Nam đă phải trải qua cơn biến động không kể hết đau thương.



    Đội quân thứ năm



    Đầu năm 1978, ông Lê Duẩn đưa Đỗ Mười vào miền Nam thay thế Nguyễn Văn Linh chỉ huy công cuộc “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”. Sau năm 1986, sự kiện này đă được nêu lên như là một bằng chứng để nói ông Nguyễn Văn Linh là người chống lại cải tạo tư sản. Tuy nhiên, theo ông Trần Phương, người có sáu tháng làm phó cho ông Nguyễn Văn Linh ở Ban Cải tạo công thương nghiệp Trung ương: “Trong vấn đề cải tạo, Mười Cúc chỉ khác Đỗ Mười ở cách làm chứ không khác ở quan điểm cải tạo hay không cải tạo. Ở thời điểm ấy, Lê Duẩn chọn Đỗ Mười và đứng sau lưng Đỗ Mười v́ ông muốn giải quyết vấn đề người Hoa gấp. Điều mà Lê Duẩn không tin là Mười Cúc làm được”.



    Ông Trần Quốc Hương, khi ấy là phó bí thư Thành ủy, kể lại: Vào Thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Lê Duẩn mời ông đến T78, hỏi về t́nh h́nh người Hoa. Cả nước khi ấy có khoảng một triệu hai trăm ngàn người Hoa. Ở miền Nam chiếm một triệu và riêng Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng hơn nửa triệu. Ông Mười Hương báo cáo: “Người Hoa ở Thành phố hoạt động trên nhiều mặt, nhưng mạnh nhất là về kinh tế. Từ sau khi ta chủ trương đánh tư sản mại bản, hoạt động kinh tế của người Hoa có bị giảm sút, nhưng họ vẫn có vai tṛ. Giá cả vàng và ngoại tệ cứ mỗi sáng sớm lại được quyết định bởi người Hoa ở một số nơi trong Chợ Lớn”. Ông Lê Duẩn nói: “Không thể thế được. Ngô Đ́nh Diệm cấm người Hoa không được kinh doanh mười một ngành nghề, theo tôi chỉ cần một thôi là cấm người Hoa không được kinh doanh buôn bán. Nhân có nhiều người đang di tản, thành phố nên có cách đưa người Hoa ra đi”.



    “Người Hoa không được kinh doanh buôn bán” được ngầm hiểu như một tư tưởng chỉ đạo của chiến dịch “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”. Giữa tháng 3- 1978, ông Đỗ Mười nhanh chóng tập kết lực lượng tại các biệt thự trong khu Thảo Điền, Thủ Đức. Trưởng Ban Hoa vận Thành ủy, ông Nghị Đoàn, kể: “Ông Đỗ Mười vào là kêu tôi lên báo cáo ngay, ông nói cho tôi biết, Chợ Lớn là trọng điểm của đợt cải tạo”.



    Chợ Lớn là trung tâm buôn bán lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam. Theo ông Phạm Văn Hùng, thường gọi là Ba Hùng, Thư kư riêng của ông Vơ Văn Kiệt: “Trung ương cho rằng thật bất lợi khi giữ 500.000 người Hoa trong thành phố. Họ sẽ nắm kinh tế và rồi họ sẽ trở thành đội quân thứ năm. Trung ương chủ trương đưa bớt người Hoa ra khỏi thành phố”. Ông Hùng nói: “Cả anh Vơ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương đều không đồng ư, nhưng Trung ương giữ ư kiến, Trung ương muốn ‘xé’ người Hoa ra, đưa về các tỉnh”. Ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận: “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh, về mặt chính sách, chủ yếu nhắm vào giới buôn bán, nhưng trên thực tế buôn bán lại là sở trường của người Hoa, do đó, mặc nhiên họ trở thành số đông trong đối tượng dính vào cải tạo. Cũng có lúc có chủ trương đưa bớt người Hoa ra khỏi Thành phố, bố trí người Hoa sống xen với người Việt theo kiểu ‘xôi đậu’, không để họ tập trung. Việc này được làm mạnh tay hơn do căng thẳng của ḿnh và Trung Quốc”.



    Theo thống kê đến tháng 3-1979 của Thành phố Hồ Chí Minh: Trước ngày 30-4- 1975 có 200 nhà tư sản lớn người Hoa bỏ chạy khỏi Sài G̣n – Chợ Lớn; chín mươi tám tư sản người Hoa trong số 161 tư sản mại bản c̣n lại ở Sài G̣n đă bị “đánh” trong khoảng từ tháng 9-1975 đến năm 1977. Hơn 4.000 hộ tư sản người Hoa khác đă bị cải tạo trong khoảng hai tuần đầu sau khi ông Đỗ Mười bắt đầu chiến dịch. Trong số 28.787 hộ bị quy là tư sản thương nghiệp và bị cải tạo, ngoài 2.500 hộ “có công với Cách mạng” hoặc là “cơ sở Cách mạng” được “ở lại thành phố theo diện chính sách”, một số chuyển sang sản xuất tại chỗ, một số “được bố trí vào mạng lưới phân phối xă hội chủ nghĩa”, 3.494 hộ bị đưa đi các tỉnh dưới danh nghĩa “đăng kư đi kinh tế mới”.



    Cũng có một số thương nhân dự tính “chuyển sang sản xuất” thật. Nhưng khi đến Lâm Đồng hay xuống Đồng Tháp Mười, nh́n những căn lán vách lá tuềnh toàng, bên trong nền nhà, cỏ cây mô đất không kịp cắt dọn, các nhà tư sản hiểu ra mục tiêu của chính quyền. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, khi ấy đang là một thanh niên xung phong, kể: “Chúng tôi được giao nhiệm vụ xây dựng các làng kinh tế mới để đón đồng bào. Cũng là những thanh niên mới từ thành phố xuống, chúng tôi chặt cây, cắt tranh dựng cấp tốc hàng loạt… Nhưng, làm xong nh́n lại, thấy đến thanh niên xung phong cũng khó ḷng mà ở trong những túp lều như thế”. Nhiều người trở lại thành phố ngay, nhiều người tạm dừng lại ít bữa để nghe ngóng. Ít lâu sau, các nhà tư sản, đặc biệt là tư sản người Hoa, được móc nối, kêu nộp vàng để được ra đi “bán hợp pháp”.



    Ông Trần Quốc Hương nói tiếp: “Lần thứ hai, Tổng Bí thư Lê Duẩn cho gọi tôi đến T78. Lần này ông không nói ǵ nhiều, chỉ nhắc, t́nh h́nh giữa ta và Trung Quốc thêm xấu đi, Thành phố cần khẩn trương đưa người Hoa ra đi”. Sau buổi làm việc đó với Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông Trần Quốc Hương nói ông đă có “nhiều đêm không ngủ”. Trong những năm 1938-1940, các nhà lănh đạo Đảng như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, khi từ Trung Quốc về Sài G̣n, nhiều lúc đă phải dựa vào người Hoa Chợ Lớn. Trước khi ra Bắc, ông Lê Duẩn có rất ít những liên hệ cá nhân với các nhà lănh đạo Trung Hoa Cộng sản. Nhưng người cận vệ vào sinh ra tử nhất mực trung thành của ông là một người Việt gốc Hoa, ông Năm Hoành. Người lái chiếc xe Ford bốn chỗ chở ông Lê Duẩn từ Sài G̣n theo đường công khai sang Phnom Penh cũng là một nhà tư sản người Hoa, ông Lai Thanh. Người được phái từ Hà Nội vào Phnom Penh chuyển lá thư của ông Phạm Hùng gửi cho ông Lê Duẩn cũng là người Việt gốc Hoa, nữ t́nh báo Hồ Anh. Người nhận lá thư này từ Hồ Anh, ông Q.M., lại là một cán bộ thuộc Hoa Kiều vụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc hoạt động tại miền Nam Việt Nam.



    Năm 1949, Q.M. đă gặp ông Lê Duẩn ở Đồng Tháp Mười. Từ Phnom Penh, Q.M. trong vai một người cháu dẫn “ông cậu” Lê Duẩn “chui” xuống một hầm tàu chật chội và nóng bức, trong suốt năm ngày, xuôi ḍng Mekong ra biển rồi đi tới Hongkong. Từ Hongkong, cán bộ lễ tân của Đảng Cộng sản Trung Quốc đă chờ sẵn, dẫn “hai cậu cháu” ông Lê Duẩn đi làm giấy tờ nhập cảnh theo diện “kiều dân Trung Hoa về nước”. Ngày 23-5-1957, phái viên Trung Quốc đă cùng với Hồ Anh đưa ông Lê Duẩn về Tỉnh ủy Quảng Châu. Theo bà Hồ Anh, các nhà lănh đạo Trung Quốc đă đón tiếp ông Lê Duẩn rất trọng thị. Trên đường bay trở lại Việt Nam, những đồng chí Trung Hoa tinh tế đă lấy lư do “thời tiết xấu”, cho dừng máy bay chở ông Lê Duẩn ở Nam Ninh. Tại đó, các “đồng chí Trung Quốc” sắp xếp để ông Lê Duẩn có cuộc đoàn tụ cảm động với Lê Tuyết Hồng, người con gái được sinh ra khi ông Lê Duẩn đang ở trong tù. Tuyết Hồng khi đó đang được Trung Quốc nuôi ăn học ở kư túc xá Quế Lâm.



    Hiệp định Geneva



    Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngồi vào bàn đàm phán Hội nghị Geneva một ngày sau khi Tướng Giáp bắt sống Tướng De Castries cùng với 16.000 quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Những người Việt Nam Cộng sản lúc ấy tin rằng họ sẽ giành được cả nước nếu tiếp tục chiến đấu.



    Ở Nam bộ, Hiệp định Geneva được coi là “xên non”. Ông Vơ Văn Kiệt nhớ lại: “Tướng Đồng Văn Cống đánh một đêm giải phóng hàng chục đồn; Tây, Ngụy hoang mang tột độ, cứ hù là chạy. Chỉ cần giữ thêm một tháng nữa là ḿnh sẽ làm chủ hết vùng nông thôn Nam bộ”. Ông Kiệt nói: “Tụi tôi tiếc không thể tưởng tượng được”. Khi thay mặt Trung ương triển khai Nghị quyết thi hành Hiệp định Geneve ở miền Nam, ông Lê Duẩn nói: “Ta không tán thành, đây là do Trung Quốc và Liên Xô ép”.



    Hành động của Chu Ân Lai tối 22-7-1954 cũng khiến cho nhiều nhà ngoại giao miền Bắc Việt Nam “để bụng”. Hôm ấy, sau khi kư Hiệp định Geneva, Chu tổ chức một dạ tiệc chia tay, mời cả Ngô Đ́nh Luyện, người của phía Việt Nam Quốc gia. Trong bữa tiệc, Chu c̣n đề nghị chính quyền Sài G̣n mở cơ quan đại diện ngoại giao ở Bắc Kinh: “Tất nhiên, về mặt ư thức hệ th́ Phạm Văn Đồng gần gũi chúng tôi hơn, nhưng điều đó không loại bỏ việc có đại diện từ miền Nam. Suy cho cùng, chẳng phải tất cả các đồng chí đều là người Việt Nam, và chẳng phải tất cả chúng ta đều là người châu Á hay sao?”.



    Trong hồi kư được công bố chính thức trên báo Nhân Dân184, thư kư kiêm phụ trách báo chí của đoàn Việt Nam trong Hội nghị Geneva, ông Nguyễn Thành Lê, gọi sự kiện Chu Ân Lai mời Ngô Đ́nh Luyện mở ṭa lănh sự tại Bắc Kinh là “câu kết với Pháp và tay sai”. Ông Lê cho rằng “Bắc Kinh đă ép buộc Hồ Chí Minh phải chia đôi Việt Nam theo Vĩ tuyến 17”. Theo ông Hoàng Tùng, ngày 3-7-1954, sau khi đạt được thỏa thuận với Mỹ và Pháp, Chu rời Geneva về gặp Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp tại Liễu Châu, thông báo với Hồ Chí Minh ư kiến của Molotov và của ông ta, dự định chia cắt Việt Nam thành hai miền ở Vĩ tuyến 17.



    Vơ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh nhất quyết đ̣i, dẫu có lùi cũng chỉ Vĩ tuyến 15 hoặc tối thiểu là 16. Một mặt, Chu Ân Lai “dọa”, Hoa Kỳ có thể nhảy vào ṿng chiến và khi đó, Liên Xô và Trung Quốc sẽ không thể hỗ trợ cho Hồ Chí Minh. Một mặt, ông ta mềm dẻo: “Ghi nhớ lời dặn của Hồ Chủ tịch, nhưng xin phép, tướng ngoài biên ải được căn cứ vào t́nh h́nh thực tế mà quyết định”. Theo ông Việt Phương, một thư kư trong Đoàn đàm phán Hiệp định Geneva của Việt Nam: “Về sau Phạm Văn Đồng thừa nhận, khi Chu Ân Lai nói sông Bến Hải sẽ được lấy làm giới tuyến, ông Phạm Văn Đồng không biết là Việt Nam có con sông ấy. Họ đă nghiên cứu kỹ đến như vậy để ép chúng ta”.



    Trung Quốc, Liên Xô rơ ràng đă không làm hết sức ḿnh cho Việt Nam trên “tinh thần quốc tế vô sản”, nhưng Việt Nam không thể nào độc lập khi không chỉ lệ thuộc “hai ông anh lớn” về vũ khí để đánh nhau với người Pháp ở Điện Biên Phủ mà c̣n lệ thuộc cả phương tiện đàm phán trong Hội nghị Geneva. Theo ông Việt Phương, lúc đó đoàn đàm phán không có điều kiện để trao đổi với Đảng và Chính phủ. Tất cả mọi thông tin liên lạc đều phải nhờ qua Trung Quốc. Từng cuộc họp một, Phạm Văn Đồng báo cáo về cho Hồ Chí Minh đều phải sử dụng điện đài và mật mă của Đoàn Trung Quốc. Trong thời gian nghỉ, Chu Ân Lai lại bay về gặp Vơ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh. Mọi tính toán của Đoàn và chỉ đạo ở nhà đều ở trong tay Trung Quốc.



    Ư thức hệ đă từng tạo ra sự gần gũi giữa Hà Nội với Bắc Kinh. Nhưng mối quan hệ quá tin cậy lẫn nhau đôi khi lại rất dễ gây nghi kỵ. Trung Quốc, Liên Xô khi xử lư vấn đề Việt Nam, và ngay cả Việt Nam trong mối quan hệ với người Khmer cũng phải ưu tiên lợi ích quốc gia. Trong khi đó, những nhà lănh đạo các đảng “đàn em” lại chờ đợi các “ông anh” bảo bọc trong tinh thần vô sản. Chính ư thức hệ đă làm cho những người cộng sản ở nước nhỏ tự huyễn hoặc về sứ mệnh “tiền đồn”185 đi đến chỗ bị hụt hẫng khi bị đem ra mặc cả cho quyền lợi của các siêu cường khác. “Chổi ngắn không quét xa”



    Nếu như khi ở miền Nam, ông Lê Duẩn chỉ nghĩ đến người Mỹ và kẻ thù trực tiếp của ông, “chính quyền tay sai” Ngô Đ́nh Diệm, th́ khi ra tới Hà Nội, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba đánh giá, muốn đánh Mỹ th́ trước tiên phải có ba cái không sợ: không sợ Mỹ, không sợ Liên Xô, không sợ Trung Quốc. Ông Hoàng Văn Hoan nghe, tṛn mắt: sao nói không sợ Trung Quốc?”. Ông Hoàng Tùng xác nhận: “Cụ Hồ lúc ấy cũng ở trong t́nh trạng ‘ngoảnh mặt sang Tề e Sở giận, quay đầu sang Sở, sợ Tề ghen’”. Ông Đậu Ngọc Xuân kể tiếp: “Trước khi họp Bộ Chính trị bàn về cách mạng miền Nam, anh Ba mất ba đêm không ngủ để suy nghĩ về thái độ của Liên Xô, Trung Quốc; họ giúp ḿnh nhưng có chi phối đường lối chiến tranh của ḿnh không? Đó là cái gay gắt nhất”.



    Theo bà Nguyễn Thụy Nga – vợ thứ hai của ông Lê Duẩn, người mà từ năm 1957-1962, khi đang học ở Bắc Kinh, thường tháp tùng Lê Duẩn vào Trung Nam Hải và được Mao Trạch Đông gọi là “Lư Phu nhân” – năm 1973, từ Khu IX ra Hà Nội, bà được ông Lê Duẩn tâm sự: “Khi ta chủ trương giải phóng miền Nam, hai ông bạn lớn đă làm anh rất đau đầu. Liên Xô sợ ḿnh đánh sẽ nổ ra chiến tranh thế giới thứ III; Trung Quốc muốn ḿnh trường kỳ mai phục ‘chờ Trung Quốc mạnh sẽ đẩy Mỹ xuống Biển Đông’. Anh không để mất ḷng ai nhưng lúc nào cũng phải giữ cho đúng tính chất độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam”186. Trên thực tế, lập trường của Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đă thay đổi vào giữa thập niên 1960.



    Cuối thập niên 1950, khi ông Lê Đức Anh cùng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đến Trung Quốc, xin súng trung liên, đại liên và ĐKZ để đưa vào Nam, Trung Quốc chỉ cho “toàn súng trường K44 bắn phát một, họ bảo để trang bị cho dân quân du kích miền Nam pḥng chống càn”187. Nhưng, cuối năm 1966, khi tháp tùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc, ông Lê Đức Anh thấy Đoàn đă được đón tiếp bởi Mao Trạch Đông cùng đại diện Bộ Quốc pḥng, Bộ Ngoại thương.



    Theo ông Lê Đức Anh: “Khi Mao hỏi: ‘Quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam đông, tư tưởng của người dân và chiến sĩ thế nào? Hiện nay cách mạng ở Miền Nam của các đồng chí có khó khăn ǵ?’, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă đề nghị để ông Lê Đức Anh trả lời. Tướng Lê Đức Anh nói: ‘Mỹ vào đông vậy chứ đông hơn nữa th́ bộ đội và nhân dân miền Nam cũng quyết đánh. Hiện nay, xe tăng và máy bay của Mỹ rất nhiều nhưng Việt Nam thiếu vũ khí chống tăng, bắn máy bay và bắn tàu thủy, thiếu đô la để mua gạo, v́ từ trước đến nay cách mạng Miền Nam Việt Nam vẫn mua gạo ở Campuchia và Thái Lan là chủ yếu, mà mua bên đó phải mua bằng đô la’. Nghe báo cáo vậy, ông Mao liền chỉ tay vào các quan chức, những người dưới quyền ông đang có mặt tại đó: Hăy giải quyết cho các đồng chí Việt Nam”188.



    Trên thực tế, mỗi khi miền Bắc điều chỉnh đường lối “cách mạng miền Nam” đều phải sang bàn với Trung Quốc.



    Theo ông Hoàng Tùng: “Không bàn th́ họ không viện trợ”. Ông Nguyễn Nhật Hồng xác nhận: “Trung Quốc giao ngoại tệ viện trợ theo phương thức rải đều từng tháng, từng quư. Nhu cầu viện trợ được B29 lên kế hoạch tŕnh ông Phạm Hùng và Lê Thanh Nghị duyệt. Tuy nhiên, kế hoạch thường bị Trung Quốc thay đổi theo ư định của họ”. Trong những năm chiến tranh, ngoài vũ khí, trang bị kỹ thuật189, Trung Quốc c̣n viện trợ rất lớn về tiền mặt. Theo Báo cáo ngày 25-11-1979 của B29, cơ quan đặc trách chi viện cho miền Nam, phần tiền mặt do Trung Quốc trực tiếp viện trợ từ năm 1964-1975 chiếm tới 626.042.653 USD. Năm 1973, khi ông Vơ Văn Kiệt ra Bắc gặp ông Lê Duẩn, Lê Duẩn hỏi: “Có tiền mua súng đánh được không?”. Ông Kiệt mừng rỡ: “Mua được súng Mỹ mà đánh Mỹ th́ quá đă”. Ông Lê Duẩ n hỏ i Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghi: “Có tiề n đưa Sá u Dân không?”. Theo yêu cầu của Lê Thanh Nghị, ông Nguyễn Nhật Hồng kiểm tra quỹ thấ y c̣ n trên hai triêụ USD tiề n măṭ . Ông Hồng nói với ông Nghị: “Muố n nhiều hơn thı̀ cầ n thờ i gian để xin”. Lê Thanh Nghi nó i: “Hai triêụ là anh Sá u mừng lắ m rồi”. Số tiền trên được giao cho thư kư mới của ông Vơ Văn Kiệt là ông Phạm Văn Hùng. Lần đầu tiên cầm hai triệu USD tiền mặt, ông Ba Hùng nói: “Thôi khỏi đếm”. Trong sổ của B29 chỉ lưu lại chữ của ông Phạm Văn Hùng ghi: “Nhận đủ 2 tấn A”.



    Quỹ tiền mặt đặc biệt này được Trung Quốc chi khá hào phóng. Nhiều khi, ông Nguyễn Nhật Hồng chỉ cần đến một ngân hàng do Trung Quốc chỉ định, vào pḥng giám đốc là được giao luôn cả một va-li tiền. Một lần khi ông Hồng cầm chiếc va-li có một triệu USD đi tàu từ Quảng Châu về Hà Nội, khi tới Thẩm Dương cả con tàu bị Hồng Vệ Binh bắt giữ. Ông Hồng bị giữ lại đấy một tuần mới liên lạc được với Hà Nội để can thiệp Bắc Kinh giải thoát. Mặc dù đă chi khá hào phóng cho các nhu cầu chiến tranh, năm 1975, quỹ tiền mặt nằm tại két của B29 vẫn c̣n năm mươi triệu triệu USD; của Chiến trường B2 và Khu V vẫn c̣n năm mươi ba triệu190.



    Sự hào phóng đó của Trung Quốc không làm cho ông Lê Duẩn lơ là cảnh giác, có lẽ đó là phản xạ của một người đă sống nhiều năm bị truy lùng gắt gao. Ông Hoàng Tùng cũng xác nhận, mỗi lần Quân ủy bàn chủ trương đều họp trong Bộ Tổng Tham mưu, những ủy viên Bộ Chính trị có mối liên hệ mà ông Lê Duẩn cho rằng là “quá thân với Trung Quốc”, hoặc có giai đoạn là “quá thân với Liên Xô”, đều được biết rất ít đến các kế hoạch chiến tranh.



    Theo một trợ lư của Bí thư Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân, gần như các cuộc họp quan trọng, anh Ba đều triệu tập khi ông Hoàng Văn Hoan đang công tác hoặc nghỉ mát ở nước ngoài. Thỉnh thoảng, ông Hoan lại thắc mắc với ông Vũ Tuân, chánh Văn pḥng Trung ương: “Răng Bộ Chính trị không bàn chuyện quân sự hè?”. Ông Vũ Tuân nói: “Anh sang Bác mà hỏi”. Theo ông Trần Phương: “Biết Hoan như vậy mà phải sau khi giải phóng miền Nam, ở Đại hội IV, Lê Duẩn mới dám đưa Hoan ra khỏi Bộ Chính trị”.



    Trong chỗ riêng tư, vợ Lê Duẩn, bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh (Lê Duẩn) nói: ‘Lần Việt Nam xin đạn pháo để chuẩn bị giải phóng miền Nam, Trung Quốc nói không có, nhưng Việt Nam đă dự trữ từ lâu đủ đạn để đánh. Khi xin 2.000 chiếc xe vận tải Giải phóng th́ Trung Quốc ra điều kiện ‘phải cho 500 lái xe Trung Quốc theo’. Anh nói: ‘Một thằng tôi cũng không cho, nếu không có xe th́ chúng tôi vác bộ, thồ bằng xe đạp’. Các anh khác bảo: ‘Anh làm ǵ mà căng thế?’. Anh nói: ‘Trung Quốc nói làm đường cho Lào sau đó họ lập làng Trung Quốc trên đất Lào. Bây giờ họ muốn thăm ḍ ta về đường Trường Sơn th́ nay mai họ sẽ chiếm Trường Sơn. Về chiến lược, ai đứng chân trên đỉnh Trường Sơn người đó sẽ khống chế cả Đông Dương, cho nên ḿnh phải tính”191.



    Những người thân của Tổng Bí thư Lê Duẩn thường có khuynh hướng mô tả ông như là một người cảnh giác với các âm mưu của Trung Quốc ngay cả khi đang xin viện trợ. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng, phải sau năm 1972 thái độ của Lê Duẩn đối với Trung Quốc mới bắt đầu thay đổi192. Theo ông Trần Phương: “Năm 1972, khi Trung Quốc tiếp Nixon, Lê Duẩn nói, chúng ta đă bị bán rẻ cho Mỹ để người Trung Quốc thay Đài Loan ngồi vào chiếc ghế ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Năm 1954, Liên Xô có lợi ích khi ḥa hoăn với Mỹ c̣n Trung Quốc th́ muốn Việt Nam bị chia cắt để vĩnh viễn ở thế chư hầu”.



    Cũng năm 1973, ông Lê Duẩn kể với bà vợ Nguyễn Thụy Nga: “Khi Nixon thương lượng với Trung Quốc, nó ra điều kiện nếu Trung Quốc để cho Mỹ ném bom B52 ra miền Bắc th́ Mỹ sẽ nhường ḥn đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc. Trước kia Trung Quốc có hứa nếu Mỹ đánh miền Bắc th́ Trung Quốc sẽ can thiệp, nhưng sau chuyến đi của Nixon, Trung Quốc tuyên bố ‘mi không đụng đến ta, ta không đụng đến mi’. Do đó, Mỹ cho máy bay bắn phá liên tục mười hai ngày đêm ở Hà Nội, Hải Pḥng, đánh các đê điều ở miền Bắc, với ư đồ đưa miền Bắc vào thời kỳ đồ đá. Mỹ dùng B52, dùng F111A, hai loại máy bay hiện đại nhất. Sau đó, Chu Ân Lai sang gặp anh ở Hồ Tây. Ông đi dưới bậc thang lên đưa tay, anh không bắt. Anh nói: ‘Các đồng chí đă bán đứng chúng tôi. Các đồng chí lấy xương máu của dân tộc Việt Nam để trả giá với Mỹ. Chúng tôi biết nhưng chúng tôi không sợ, chúng tôi sẽ đánh đến cùng và nhất định chúng tôi sẽ thắng’ ”193.



    Sau cuộc gặp này với Lê Duẩn, Chu Ân Lai tới nhà khách Lê Thạch để gặp Hoàng thân Sihanouk, khi ấy cũng đang ở Hà Nội. Theo Sihanouk: “Chu trông mệt mỏi và có vẻ bị kích động bởi cuộc thảo luận mà ông vừa tiến hành với các đồng chí Bắc Việt Nam của ông. H́nh như ông đang cáu”194. Theo Sihanouk th́ đây là chuyến đi mà Chu Ân Lai muốn giải thích chính sách mới của Trung Quốc với người Mỹ. Chu đă nói với các nhà lănh đạo Bắc Việt Nam “gay gắt và cứng rắn” rằng mối quan hệ mới đó sẽ dẫn tới ḥa b́nh ở Đông Dương.

    Không chỉ phản ứng trong hội đàm, khi đưa tiễn Chu Ân Lai, thay v́ đi cùng thầy tṛ Chu ra tận chân cầu thang máy bay, Lê Duẩn đă dừng lại ngay cửa nhà ga sân bay Gia Lâm. Các quan chức Việt Nam tất nhiên cũng phải đứng lại. Chu Ân Lai và người phiên dịch, Lương Phong, gần như phải lủi thủi bước lên máy bay đi về. Lương Phong cho rằng hành động đó của ông Lê Duẩn là rất phản cảm195. Sau chuyến đi này của Chu, Trung Quốc bắt đầu “kiếm chuyện” trên vùng biên giới.



    Ngày 05-06-1973, Chu Ân Lai lại đến Hà Nội khuyên ông Lê Duẩn nên thư giăn và xây dựng lực lượng, trong khoảng năm đến mười năm tới nên để miền Nam Việt Nam, Lào, và Campuchia ḥa b́nh, độc lập, và trung lập. Trong số các nhà lănh đạo Bắc Kinh thời bấy giờ, Chu Ân Lai được đánh giá là khá chân thành. Nhưng theo ông Trần Phương, về sau, khi kết nối các sự kiện, “anh Ba cay lắm v́ Trung Quốc khuyên Việt Nam làm theo những ǵ mà họ đă thỏa thuận với Mỹ”196.



    Phó Thủ tướng Trần Phương nói tiếp: “Năm 1972, khi Mao Trạch Đông nói với Phạm Văn Đồng: Chổi ngắn không quét được xa, Lê Duẩn đă bắt đầu hiểu ḷng dạ của người Trung Quốc. Họ chỉ muốn cung cấp vũ khí để Việt Nam chiến đấu giữ chân người Mỹ ở miền Nam thay v́ có thể tiến gần họ. Năm 1973, khi Chu Ân Lai khuyên giữ trung lập miền Nam, Lê Duẩn biết, nếu cứ giải phóng miền Nam th́ không thể nào tránh làm cho Bắc Kinh tức giận”.



    Hoàng Sa



    Câu chuyện mặc cả giữa Mỹ và Trung Quốc về “phạm vi mười hai hải lư” được ông Lê Duẩn nói với vợ từ năm 1973, chứng tỏ tin tức t́nh báo mà Hà Nội nắm được là khá tốt.



    Ngày 4-4-1972, khi quân đội miền Bắc đang tấn công dữ dội vào Quảng Trị, người Mỹ cần một áp lực từ phía Bắc Kinh với Hà Nội, Kissinger đă phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để trao một “bức điện miệng” nhắn Trung Quốc: “Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng cách mười hai dặm kể từ quần đảo Hoàng Sa”197.



    Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo mà các Chúa Nguyễn đă đưa người ra khai thác từ thế kỷ XVII. Năm 1816, vua Gia Long chính thức thiết lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này. Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, bản vẽ năm 1838 của Nhà Nguyễn đă thể hiện hai quần đảo với tên gọi là Hoàng Sa và Vạn Lư Trường Sa.



    Năm 1920, Chính quyền Pháp, với tư cách là nhà nước bảo hộ ở Đông Dương, đă tuyên bố chủ quyền và hiện diện liên tục trên cả Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 4- 1946, quân Pháp đưa quân đội ra kiểm soát cụm phía Tây Hoàng Sa. Tháng 11- 1946, quân Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa, và tháng 12- 1946 đổ bộ lên Itu Aba thuộc Trường Sa. Năm 1950, quân Tưởng rút khỏi hai quần đảo này. Một năm sau Chính quyền Mao Trạch Đông mới tuyên bố “bảo lưu chủ quyền của Trung Quốc”.



    Năm 1954, theo Hiệp định Geneva, Hoàng Sa ở phía Nam Vĩ tuyến 17 sẽ thuộc về chính quyền miền Nam Việt Nam. Nhưng đến tháng 4-1956, khi lực lượng Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa ra tiếp quản, hai đảo lớn nhất đă bị “quân giải phóng Trung Quốc” thừa cơ chiếm mất. Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa trên thực tế cai quản liên tục bốn đảo chính: Pattle (Hoàng Sa), Robert (Cam Tuyền), Duncan (Quang Ḥa Đông) và Drummond (Duy Mộng). Riêng trên đảo Pattle, Việt Nam c̣n có một đài khí tượng thuộc hệ thống quốc tế. Từ năm 1956, việc tranh chấp phần bị Trung Quốc chiếm đóng vẫn tiếp tục diễn ra giữa Việt Nam Cộng Ḥa và Trung Quốc.



    Sáng 16-1-1974, Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa phát hiện tàu cá Trung Quốc xuất hiện trong vùng đảo chủ quyền Việt Nam. Khi người nhái của hải quân Việt Nam đổ bộ lên đảo Duncan và Drummond th́ ở đó đă có một toán quân nhân Trung Quốc. Hôm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang “kinh lư miền Trung”. Trong bữa cơm tối tại một căn cứ của quân đội ở Mỹ Khê, Tổng thống được Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại tŕnh bày sơ bộ “biến cố Hoàng Sa”. Theo Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại: “Nghe xong, Tổng thống quyết định sáng hôm sau sẽ đến Vùng Một Duyên hải để xem xét t́nh h́nh”.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 11
    Last Post: 24-07-2011, 11:06 PM
  2. Replies: 13
    Last Post: 29-12-2010, 08:13 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 21-09-2010, 02:50 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •