Chiến tranh Việt Nam
Wikipedia
Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, hay Chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
Một phần của Chiến tranh Lạnh và Chiến tranh Đông Dương
.
Địa điểm Đông Nam Á với chiến trường chính là toàn bán đảo Đông Dương
Nguyên nhân bùng nổ Mong muốn giành độc lập và thống nhất cho đất nước của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và sự ra đời Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam với mục tiêu đánh bại Chủ nghĩa thực dân mới mà Hoa Kỳ muốn áp đặt ở Việt Nam[1]
Hoa Kỳ can thiệp chính trị và quân sự vào Việt Nam nhằm thi hành Chính sách chống Cộng theo Thuyết domino, với mục đích duy tŕ ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á.
Việt Nam Cộng ḥa từ chối tuyển cử thống nhất đất nước và thi hành chính sách "Tố Cộng Diệt Cộng" theo đạo luật 10-59, muốn thống nhất Việt Nam nhưng không chấp nhận đàm phán hoặc tranh cử với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa[2].
Kết quả
Chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
Việt Nam thống nhất dưới chính quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hoa Kỳ triệt thoái lực lượng viễn chinh khỏi Đông Dương
Thay đổi lănh thổ
Việt Nam Cộng ḥa bị sụp đổ và phần lớn lănh thổ của nó được quản lư bởi Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam và sau này thống nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thành nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam
Tham chiến:
Việt Nam Cộng ḥa
Hoa Kỳ
Hàn Quốc
Thái Lan
Úc
New Zealand
Philippines
Đài Loan
Chiến trường liên quan:
Cộng ḥa Khmer
Vương quốc Lào Tham chiến:
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Hỗ trợ:
Liên Xô[3]
Trung Quốc[4]
Các nước khác trong hệ thống xă hội chủ nghĩa
Chiến trường liên quan:
Khmer Đỏ
Pathet Lào
Chỉ huy
Chính trị
Flag of South Vietnam.svg Ngô Đ́nh Diệm
Flag of South Vietnam.svg Nguyễn Văn Thiệu
Flag of the United States.svg Dwight D. Eisenhower
Flag of the United States.svg John F. Kennedy
Flag of the United States.svg Lyndon Johnson
Flag of the United States.svg Richard Nixon
Flag of South Korea (bordered).svg Park Chung Hee
Quân sự
Flag of the United States.svg Robert McNamara
Flag of the United States.svg William Westmoreland
Flag of the United States.svg Creighton Abrams
Flag of South Korea (bordered).svg Chae Myeong shin
Flag of South Korea (bordered).svg Lee Sei ho Chính trị
Flag of Vietnam.svg Hồ Chí Minh
Flag of Vietnam.svg Lê Duẩn
Flag of Vietnam.svg Phạm Văn Đồng
FNL Flag.svg Nguyễn Hữu Thọ
FNL Flag.svg Huỳnh Tấn Phát
Quân sự
Flag of Vietnam.svg Vơ Nguyên Giáp
Flag of Vietnam.svg Nguyễn Chí Thanh
Flag of Vietnam.svg Văn Tiến Dũng
FNL Flag.svg Trần Văn Trà
FNL Flag.svg Hoàng Văn Thái
FNL Flag.svg Lê Trọng Tấn
FNL Flag.svg Chu Huy Mân
FNL Flag.svg Song Hào
FNL Flag.svg Hoàng Minh Thảo
FNL Flag.svg Lê Đức Anh
Lực lượng
Quân số: Khoảng 1.200.000 (tháng 7-1968), gồm:
Flag of the United States.svg Hoa Kỳ: 541.933
Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hoà: ~600.000
Flag of Thailand.svg Thái Lan: 5.900
Flag of South Korea.svg Hàn Quốc: 50.355
Flag of the Philippines.svg Philippines: 1.825
Úc: 7.379
New Zealand: 523
Đài Loan: 31.
Trang bị hạng nặng (năm 1968):
3.787 xe tăng - xe thiết giáp, 2.540 đại bác các loại,
Hơn 2.000 máy bay và 3.300 trực thăng (chiếm 60% Không quân Hoa Kỳ)
4 tàu sân bay, 263 tàu chiến và hơn 1.500 tàu xuồng cỡ nhỏ (chiếm 40% Hải quân Hoa Kỳ). Quân số:~520.000, trong đó khoảng 280.000 chiến đấu ở miền Nam (1968).
Trang bị hạng nặng (năm 1968):
180 xe tăng T-34 và PT-76, 150 xe thiết giáp, 850 đại bác
~90 máy bay và trực thăng, 65 hệ thống pḥng không SA-2, ~1.000 pháo pḥng không
12 tàu phóng lôi và vài chục tàu vận tải cỡ nhỏ.
Tổn thất
Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng ḥa
Chết: ~250.000-316.000[5][6]
Bị thương: ~1.170.000
Flag of the United States.svg Hoa Kỳ.
Chết: 58.209[5], 2.000 Mất tích
Bị thương: 305.000[7]
Flag of Laos (1952-1975).svg Vương quốc Lào
Chết: 30.000
Bị thương không rơ [8]
Flag of South Korea (bordered).svg Hàn Quốc
Chết: 4.407[5]
Bị thương: 11.000
Flag of Australia.svg Úc
chết: 520[5]
bị thương: 2.400*
Flag of New Zealand.svg New Zealand
chết: 37
bị thương: 187
Cờ của Thái Lan Thái Lan
Chết: 1.351[5]
Tổng số chết: ~346.000-412.000
Tổng số bị thương: ~1.490.000+ (chưa kể quân Hoàng gia Lào)
Flag of Vietnam.svg FNL Flag.svg Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam
Chết và mất tích: ~1.100.000[9][7]
Bị thương: ~600,000+
Flag of the People's Republic of China.svg Trung Quốc
Chết: 1.100[4]
Bị thương: 4.200[4]
Cờ của Liên Xô Liên Xô
Chết: 16 (chủ yếu do bệnh)[10]
Tổng số chết: ~1.101.000
Tổng số bị thương: ~604.000+
Thường dân Việt Nam: 2.000.000–5.100.000*
Thường dân Campuchia: ~700.000*
Thường dân Lào: ~50.000*
Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh Đông Dương (1945–1979). Đây là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là Việt Nam Cộng ḥa ở miền Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ và một số đồng minh khác như Úc, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philippines tham chiến trực tiếp; một bên là Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở miền Bắc Việt Nam cùng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tại miền Nam Việt Nam, do Đảng Lao động Việt Nam (tên của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 11 tháng 2 năm 1951 đến trước ngày 20 tháng 12 năm 1976) lănh đạo được sự viện trợ vũ khí từ các nước xă hội chủ nghĩa (cộng sản), đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc. Cuộc chiến này tuy gọi là "Chiến tranh Việt Nam" nhưng chiến sự lan ra toàn cơi Đông Dương, lôi cuốn vào ṿng chiến cả hai nước lân cận là Lào và Campuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó cuộc chiến c̣n được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2.
Tên gọi
Tại Việt Nam, sách báo c̣n dùng tên Kháng chiến chống Mỹ cứu nước để chỉ cuộc chiến tranh này,[11] cũng là để phân biệt với các cuộc chiến tranh khác đă xảy ra ở Việt Nam khi chống Pháp, chống Nhật, chống Mông Cổ, chống Trung Quốc... Một số người[12] cảm thấy tên Kháng chiến chống Mỹ không trung lập do trong cuộc chiến c̣n có những người Việt tham chiến cùng Hoa Kỳ;[12] một số khác th́ lại cho rằng tên Chiến tranh Việt Nam thể hiện cách nh́n của người phương Tây hơn là của người sống tại Việt Nam.[12] Tuy nhiên về mặt học thuật, hiện nay các học giả ngoài Việt Nam thường sử dụng tên "Chiến tranh Việt Nam" v́ tính chất quốc tế của nó.[12]
Tên gọi ít được sử dụng hơn là Chiến tranh Đông Dương lần 2, được dùng để phân biệt với Chiến tranh Đông Dương lần 1 (1945-1955), Chiến tranh Đông Dương lần 3 (1975-1989, gồm 3 cuộc xung đột ở Campuchia và biên giới phía Bắc Việt Nam).
Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng ḥa đầu hàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam, tiếp quản miền Nam cho đến khi đất nước thống nhất. Nhà nước thống nhất với quốc hiệu là Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời vào năm 1976.
Mục tiêu của các bên trong Chiến tranh Việt Nam
Mục tiêu của các bên trong Chiến tranh Việt Nam rất phức tạp và đa diện tùy theo lập trường của các bên, nhưng có thể rút ra một số đặc điểm sau:
Đối với các nhà lănh đạo của Mỹ[13] và Việt Nam Cộng ḥa[14][15] th́ đây là cuộc chiến tranh giữa hai hệ tư tưởng: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản. Chính phủ Mỹ muốn ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á (Xem Thuyết Domino), và đă đứng ra cáng đáng chi phí cho cả cuộc chiến,[16][17][18] và có giai đoạn quân đội Mỹ đă trực tiếp chiến đấu trên chiến trường thay cho quân đội Việt Nam Cộng ḥa.[19][20][21][22] Theo quan điểm của những người ủng hộ chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà, đây là cuộc chiến để giữ miền Nam Việt Nam không thuộc về những người cộng sản.
Về quan điểm của người dân và học giả Hoa Kỳ, có hai chiều hướng chính. Một phía tin vào chính phủ và ủng hộ cuộc chiến chống Cộng của quân đội Hoa Kỳ. Phía kia cho rằng đây là cuộc chiến tranh xâm lược theo kiểu thực dân mới, c̣n Việt Nam Cộng ḥa chỉ là một dạng chính phủ bù nh́n mà Hoa Kỳ kế thừa từ Pháp[23][24] c̣n chính sách chống Cộng sản của chính phủ Mỹ theo Jonathan Neale chỉ là cái cớ để phục vụ cho quyền lợi của những tập đoàn tư bản Mỹ.[25]
Đối với các nhà lănh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam th́ đây là cuộc chiến tranh nhằm thực hiện các mục tiêu giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho đất nước và xây dựng chủ nghĩa xă hội, mục tiêu vẫn c̣n dang dở sau 9 năm kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ.[26] Họ nh́n nhận cuộc chiến này là một cuộc chiến chống ngoại xâm, chống lại chủ nghĩa thực dân mới mà Mỹ áp đặt tại miền Nam Việt Nam.[27][28][29]
Đối với đa số người Việt Nam, sau 2000 năm chiến đấu chống các lực lượng ngoại xâm, người Mỹ đơn giản là sự hiện diện mới nhất của ngoại bang trên đất nước Việt Nam. Người Việt Nam xem cuộc chiến chống Mỹ là giai đoạn mới nhất của cuộc đấu tranh trường kỳ giành độc lập từ cuối thế kỷ 19[30][31][32] Những người này đă góp nên sức mạnh cho phong trào dân tộc mănh liệt do Hồ Chí Minh lănh đạo.[33] Phong trào do Đảng Lao Động Việt Nam, với uy tín trong nhân dân đạt được từ việc đă tổ chức Mặt trận Việt Minh giành độc lập cho đất nước và kiên tŕ chiến đấu chống thực dân Pháp, và tổ chức do đảng này thành lập là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đi tiên phong, đă đạt được sự ủng hộ rộng răi của nhân dân.[34][35][36][37][38] Trong khi đó, Việt Nam Cộng ḥa th́ ngày càng phụ thuộc vào Hoa Kỳ và không duy tŕ được vai tṛ độc lập của họ trong con mắt người dân (nhất là sau khi Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại trong vụ đảo chính được cho là do Mỹ giật dây) – nhất là khi đa số lănh đạo của họ là những người trong chính phủ Trần Trọng Kim, h́nh thành dưới chế độ bảo hộ của phát xít Nhật, hay đă từng làm việc cho Quốc gia Việt Nam, một chính thể bị nhiều người xem là tay sai của Pháp.[39] Tiền thân của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa là Quân đội Quốc gia Việt Nam cũng được thành lập dựa trên một hiệp ước giữa Quốc gia Việt Nam với Pháp, sau đó được Việt Nam Cộng ḥa tổ chức lại theo kiểu Mỹ. Ngoài những người có cảm t́nh với các bên tham chiến, đại đa số những người dân miền Nam c̣n lại không quan tâm về các hệ tư tưởng chính trị, họ chỉ muốn được yên ổn để làm ăn.[40] Theo quan điểm của nhiều sử gia, cuộc chiến này, do đó, mang tính dân tộc rất cao:[41][31][42][34] sự độc lập và thống nhất của đất nước, sự ủng hộ của đa số nhân dân đă trở thành yếu tố quyết định giúp những người Cộng sản thắng lợi chứ không phải là nhờ vào hệ tư tưởng hay ưu thế quân sự.
Trên cục diện quốc tế đây là cuộc "chiến tranh nóng" trong ḷng Chiến tranh Lạnh đang diễn ra quyết liệt lúc đó trên thế giới.[43] Cả Liên Xô và Trung Quốc dù có những xung đột sâu sắc với nhau vẫn cùng viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa chống lại Mỹ, điều họ cũng làm với Khối Ả Rập và nhiều phong trào cánh tả ở châu Phi và Mỹ Latinh khác.
Cuộc chiến tranh này được nhiều người phân đoạn theo các cách khác nhau: Người Mỹ[44][45][46][47] thường quan niệm "Chiến tranh Việt Nam" được tính từ khi khi họ trực tiếp tham chiến trên bộ đến khi chính quyền Việt Nam Cộng ḥa đầu hàng (từ 1965 (nhiều nguồn cho là 1964)[45] đến 1975). Có nhiều nguồn[48][49][50][51] khác lại coi cuộc chiến bắt đầu từ 1960 đến 1975, tính từ khi Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa bắt đầu công khai ủng hộ đấu tranh vũ trang tại miền Nam. Nhưng quan điểm chung[11][52] và chính thống hiện nay của chính phủ Việt Nam[11] vẫn coi Chiến tranh Việt Nam được tính từ 1955 đến 1975.
Viện trợ nước ngoài
Bài chi tiết: Viện trợ nước ngoài và Chiến tranh Việt Nam (quốc tế, 1960-1965)
Chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại. Hoa Kỳ đă viện trợ ồ ạt cho Việt Nam Cộng ḥa cũng như trực tiếp tham chiến, hoạch định và điều khiển các chiến lược chiến tranh (Đặc biệt, Cục bộ, Việt Nam hóa...), với tổng chiến phí lên tới hơn 686 tỷ đôla (thời giá năm 2008). 5 nước đồng minh của Mỹ cũng gửi quân tới trực tiếp tham chiến tại Việt Nam gồm Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan, Philipines.
Tuy không thể sánh về số lượng với Mỹ, song Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa cũng nhận được sự giúp đỡ vật chất khá lớn (khoảng 7 tỷ đôla) từ Liên Xô, Trung Quốc, và khối các nước xă hội chủ nghĩa. Nhưng khác với Việt Nam Cộng ḥa, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa không chấp nhận cho nước ngoài đem quân tới tham chiến trực tiếp (nhằm giữ vững tính tự quyết của ḿnh). Lực lượng quân đội và chuyên gia quân sự khối Xă hội Chủ nghĩa chỉ được phép đóng từ Thanh Hóa trở ra và chỉ hỗ trợ trong các hoạt động gián tiếp như pḥng không, xây dựng, kỹ thuật và huấn luyện, và chịu sự điều động của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa khi cần. Các đường lối lănh đạo và việc tham chiến chỉ do Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tự hoạch định và tiến hành, không chịu điều khiển từ bên ngoài. Thực tế dù cả Liên Xô và Trung Quốc gây sức ép cũng không thể làm Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thay đổi các sách lược của ḿnh.[53]
Có thể nói viện trợ nước ngoài có vai tṛ và tác động to lớn đến quy mô, cường độ và h́nh thái chiến tranh Việt Nam.
Chủng loại Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng ḥa (số lượng c̣n lại vào năm 1975, không tính số bị phá hủy trước đó)[54]
từ Hoa Kỳ Flag of North Vietnam.svgViệt Nam Dân chủ Cộng ḥa (tính tổng cả giai đoạn 1960-1975)[55]
từ Trung Quốc, Liên Xô và các nước xă hội chủ nghĩa
Súng bộ binh 1.900.000 3.608.863
Phi cơ 1.200 458 (năm 1975 c̣n khoảng 150 chiếc)
Trực thăng 600 Không có số liệu, chừng vài chục
Xe tăng-xe thiết giáp 2.074 2.210 (năm 1975 c̣n 570 chiếc)
Tên lửa SA-2 Không có trang bị 23
Súng cối 14.900 Chừng vài ngàn
Súng phóng lựu chống bộ binh 47.000 Không có trang bị
Pháo các loại 1.532 (chỉ tính cỡ 105mm trở lên) 8.438 (khoảng 1/4 cỡ từ 105mm trở lên, năm 1975 huy động 1.076 khẩu các loại)
Xe cơ giới các loại 56.000 16.116
Máy thông tin 50.000 (vô tuyến)
70.000 (hữu tuyến) Không có trang bị
Bệ phóng rốc két Không có trang bị 1.357
Bookmarks