Tại sao tổng thống Obama lo thất cử trong cuộc bầu nhiệm kỳ hai tháng 11/2012?
Trong quá khứ, khi t́nh h́nh chính trị kinh tế Mỹ tương đối ổn định th́ tổng thống măn nhiệm sẽ tiếp tục thắng khi quyết định tái tranh cử, nghĩa là làm đủ hai nhiệm kỳ hiến định. Những tổng thống đương nhiệm mà không tiếp tục được nhiệm kỳ thứ hai là v́ những lư do đặc biệt. Tổng thống Lyndon Johnson làm tổng thống một nhiệm kỳ v́ ông quyết định không ra tranh cử để có thể tiếp tục chính sách chiến tranh Việt nam mà không bị các áp lực phản chiến. Tồng thống Nixon làm tổng thống 1 nhiệm kỳ v́ ông bị dính vào vụ Watergate tai tiếng nghe lén. Tổng thống Ford một nhiệm kỳ v́ ông là một tổng thống không có bản lănh, may mắn mà giữ chức tổng thống thay cho Nixon từ chức. Tổng thống Carter một nhiệm kỳ v́ bị lao đao bởi chuyện Hoa kỳ mất mặt tại Iran v́ cuộc cách mạng lật đổ chế độ vua Shah thân Mỹ và t́nh h́nh thiếu hụt săng dầu. Tổng thống Bush bố làm tổng thống một nhiệm kỳ v́ lập trường chống Do Thái lập các trại định cư trên các vùng đất Palestine khiến các tổ chức vận động chính trị Do Thái đổ dồn vào ủng hộ Clinton, thổi mạnh ông này lên vào phút chót, mặc dầu ông đầy tai tiếng về những vụ lăng nhăng t́nh ái. Tổng thống Obama sắp măn nhiệm kỳ, là một người lưu loát, đă lôi kéo được giới trẻ và trí thức, đă tạo hy vọng to lớn nơi đông đảo quần chúng muốn thay đổi để mà thắng ngoạn mục liên danh Cộng hoà thượng nghị sĩ kỳ cựu John McCain và thống đốc Alaska Sarah Palin, th́ tại sao lại có lo ngại sẽ không thắng cử chỉ sao 3 năm tại chức? Bởi v́ tỷ lệ các thăm ḍ cho biết số người ủng hộ ông rất cao, là 69% khi mới làm tổng thống đă đi xuống đáng sợ, thấp hơn mọi tổng thống tiền nhiệm, là 39%, vào tháng 10/2011 và hiện nay ở mức 45%, so với ông Ford cùng giai đoạn tháng giêng năm tái ứng cử 1976, được 46%.
Có nhiều lư do để mà sự ủng hộ Obama đi xuống như vậy. Các nhà b́nh luận chuyên nghiệp cho rằng là v́ t́nh h́nh kinh tế hồi phục chậm, và số thất nghiệp cao, nhưng đây chỉ là một cách đổ tội tiện lợi mà không chính xác, v́ rằng cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh là bắt đầu từ thời ông Bush. Cuộc khủng hoảng này không do Obama mà là do bản chất của sự khai thác làm giầu vô trách nhiệm của giới tài phiệt. Ông Obama hay ai làm tổng thống th́ cũng không thay đổi ǵ được nếu giới tài phiệt không đồng ư. Một lư do quan trọng khiến sự ủng hộ Obama đi xuống là v́ ông đă hoàn toàn lùi bước, kể như đảo ngược các chủ trương của ông khi vận động tranh cử, khiến giới trẻ và trí thức là thành phần tích cực nhất vận động cho ông cách đây bốn năm đă bỏ đi. Những giới quần chúng mong muốn có sự thay đổi đă thất vọng v́ ông Obama đă không tạo được ǵ đáng gọi là thay đổi, mà chỉ thấy ông là một nhà chính trị thoả hiệp mà cũng không có được thoả hiệp. Ông đă nhấn mạnh và ca tụng thành tích của quân đội tại Iraq là phi thường, và không quên nhắc lại rằng chính ông đă cho lệnh hành quân đặc biệt giết chết Osama bin Laden để nhận công, nhưng không làm mấy ai thán phục. Thực sự, người ta biết rằng ông đă cho rút quân khỏi Iraq bởi v́ không thể không thực hiện hứa hẹn này của tổng thống Bush con, dù rằng t́nh h́nh an ninh Iraq không khá bao nhiêu. Bằng cớ là các cuộc nổ bom đă gia tăng sau khi quân Mỹ rút và t́nh h́nh chính trị Iraq th́ là một mớ ḅng bong, chứ không phải là một mẫu mực dân chủ như tổng thống Bush con tuyên bố khi mở cuộc xâm lặng vào xứ này cách đây gần một thập niên. Luật cải tổ chăm sóc sức khoẻ mà ông kư thoạt tiên đă được thổi lên là một thành quả lớn nhưng điểm then chốt trong chủ trương có một cơ quan công lo vấn đề sức khoẻ cạnh các hăng bảo hiểm tư để tránh không cho các hăng này độc quyền thao túng đă bị vất đi. Luật này do đó đă vừa không có sự tán trợ nồng nhiệt của quần chúng vừa bị phe Cộng hoà chống đối V́ thế, ông đă không nói đến bao nhiêu trong bài tường tŕnh hàng năm mới đọc trước quốc hội. Về chính sách Trung đông, ông đă bỏ chủ trương chống xây dựng các khu định cư mới của Do Thái trên đất Palestine sau khi làm tổng thống vài tháng. Ông cũng đảo ngưọc chủ trương thảo luận với Syria và Iran, để đi theo lập trường của Do Thái quyết liệt chống hai nước này. Không nói thêm về nhiều điều khác không thực hiện, chỉ riêng một vấn đề kinh tế tài chính suy trầm không có mấy hy vọng chấm dứt đă làm ông Obama ở cương vị đương quyền mà phải lâm vào thế hứa hẹn, hay là ra những biện pháp h́nh thức tượng trưng, như thông báo việc thành lập một ủy ban công tố đặc biệt điều tra truy tố những tài phiệt lạm dụng sự cho vay vô trách nhiệm dẫn đến vụ khủng hoảng bất động sản và tài chính năm 2008, và t́nh trạng chính phủ phải bỏ tiền ra giúp cho các đại công ty đầu tư v́ lư do “quá lớn cho nên không thể để sập”. Việc này, nếu ông làm khi mới nhậm chức th́ tác dụng đă là khác hẳn. Bài diễn văn tường tŕnh t́nh h́nh liên bang, do đó đă không c̣n được kể như là gây hứng khởi, tin tưởng thay đổi sắp tới, như những bài diễn văn tranh cử trước đây. Bởi v́ 65% dân chúng trong các cuộc thăm ḍ cho biết họ cảm thấy chính phủ đi sai đường, nghĩa là không hài ḷng với nhà hùng biện Obama nữa.
Chỉ với vài dữ kiện trên, cộng với t́nh h́nh kinh tế èo uột, đủ là những lư do để làm cho bài trường tŕnh t́nh h́nh liên bang hàng năm của ông Obama mang tính quảng cáo thụ động và ít thuyết phục, không dấu nổi sự lo ngại thất cử.
BS TXN
Ngày 6 tháng 2 năm 2012
Bookmarks