Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
TRẬN CHIẾN KHE SANH

Tác giả giữ bản quyền. Muốn trích đăng, vui ḷng liên lạc Email:
doanket@yahoo.com. Cám ơn)
(Phần 5 - Hết)
NHẬN XÉT
B́nh phẩm một biến cố đă xảy ra là điều tương đối dễ dàng v́ chúng ta biết rơ ưu khuyết điểm nên có thể đưa ra nhiều giả thuyết hoặc “nghi vấn” bắt đầu bằng chữ “nếu …”. Nhưng đặt ḿnh vào cương vị của người có trách nhiệm với những quyết định sinh tử đúng lúc và đúng mức trước và trong lúc xảy ra trận đánh mới là điều đáng nói và đó cũng là sự khác biệt về khả năng của mỗi cấp chỉ huy. Tuy nhiên, “ôn cố tri tân”, rút ưu khuyết điểm và nhất là luận đúng công trạng, “trả lại cho Ceasar những ǵ của Ceasar” là điều nên làm. Chúng tôi không hề hàm ư mù quáng khen chê, chỉ trích hoặc chê bai thẩm quyền đă đưa ra quyết định này, lệnh lạc nọ, chỉ hy vọng đưa ra những nhận xét khách quan căn cứ vào những thực tế đă xảy ra.
Phân tích về trận đánh tại Trại Làng Vei, chúng ta có thể rút tỉa được nhiều kinh nghiệm về chiến thuật, chiến lược cũng như về hệ thống chỉ huy. Ngoài ra, tinh thần chiến đấu anh dũng của quân trú pḥng khi phải đối diện với chiến xa địch cũng được mô tả khá rơ ràng trong các phúc tŕnh hậu hành quân. Trong tổng số 24 quân nhân HK tham chiến tại trại được ân thưởng 24 huy chương gồm 1 Medal of Honor, 1 Distinguished Service Cross, 19 Silver Star và 3 Bronze Star, chưa kể phần lớn những quân nhân HK khác thuộc lực lượng tiếp cứu cũng được ân thưởng huy chương, đó là chưa kể những huy chương VN được tưởng thưởng thêm cho những quân nhân HK này. Số huy chương Silver Star được ân thưởng nhiều đến nỗi sau này, trận đánh tại Trại Làng Vei được mệnh danh là "Night of the Silver Stars". Như thường lệ, các tài liệu Hoa Kỳ đều coi trận đánh như “tài sản” riêng, chỉ có quân nhân Hoa Kỳ chiến đấu và có công, mặc dầu Làng Vei là một trại LLĐB của Việt Nam, có Trại Trưởng người Việt và quân số trong trại gồm khoảng 500 người, chỉ có 24 “cố vấn” Mỹ. Sự đóng góp của quân nhân VN được nói tới rất ít, hầu như không đáng kể. Chúng tôi cũng không rơ những quân nhân Việt Nam này đă được ân thưởng những ǵ, nhưng có điều chắc chắn căn cứ vào lời thuật lại của các bạn đồng trại HK, họ đă chiến đấu anh dũng nếu không hơn th́ cũng chẳng kém những "cố vấn" đồng minh.
Trận Làng Vei được bàn căi nhiều v́ những đặc điểm về chiến lược, chiến thuật cũng như hệ thống chỉ huy. Sau đây là một số nhận xét riêng của người viết về một số điểm chính.
1. Yếu tố chiến xa
Đây là lần đầu tiên địch xử dụng thiết giáp trên chiến trường VN. Tuy chỉ là chiến xa lội nước loại PT-76 được bọc thép tương đối mỏng, nhưng hỏa lực của đại bác 76 ly trực xạ và nhất là yếu tố tâm lư đă khiến quân trú pḥng như tê liệt khi bất ngờ chạm trán với hàng chục tấn thép hầu như không phá hủy nổi. Chính những chiến xa này đă xâm nhập, phá hủy các công sự và gây rối loạn cho hệ thống pḥng thủ khá vững chắc. Có thể nói, nếu thiếu chiến xa, lực lượng bộ binh địch khoảng 3 Tiểu Đoàn khó có thể tràn ngập trại.
Điều đáng ngạc nhiên, mặc dù đă được TĐ 33 BV Lào báo trước có chiến xa địch xuất hiện, và không thám cũng cung cấp những bằng chứng rơ ràng, nhưng cấp chỉ huy HK vẫn cho rằng quân Bắc Việt không có thiết giáp trong vùng. Ngay cả khi các toán thám sát MACV/SOG báo cáo phát hiện dấu xích chiến xa cạnh bờ sông Sepone bên Lào, giới chức thẩm quyền vẫn cho rằng họ chỉ thổi phồng để "lấy điểm". Đến lúc chiến xa địch đă thực sự phá hàng rào pḥng thủ xâm nhập trại, TQLC tại căn cứ Khe Sanh có nhiệm vụ yểm trợ trại Làng Vei khi nghe báo cáo vẫn không tin, yêu cầu xác nhận nhiều lần. Chúng ta có thể kết luận: chính sự đánh giá sai lầm khả năng xử dụng thiết giáp của địch đă đưa đến việc trại bị tràn ngập.
Tuy Đại Úy Willoughby có đôi chút cảnh giác, yêu cầu cung cấp khoảng 100 hỏa tiễn chống chiến xa LAW, nhưng ông cho rằng chiến xa của địch quân nếu có cũng chỉ được dùng để yểm trợ như súng cối pháo kích từ ngoài hàng rào, thay v́ trực tiếp tấn công như đă xảy ra. Sự lượng giá sai lầm này không đáng ngạc nhiên v́ địa thế vùng Khe Sanh hiểm trở với nhiều đồi núi khe suối, không thuận tiện cho chiến xa di chuyển. Về vũ khí chống chiến xa, các quân nhân HK đă tự tay bắn thử một số hỏa tiễn LAW, quân nhân VN được thực tập hầu như không có; số hỏa tiễn c̣n lại không được phân phối cho các tổ chiến đấu nơi hàng rào pḥng thủ mà tập trung trong hầm chỉ huy. V́ vậy, khi chiến xa địch phá hàng rào xâm nhập mặt Nam, ĐĐ DSCĐ 104 không có vũ khí để chống lại. Ngoài ra, cho dù chiến xa địch có bất ngờ lọt được vào trại, nhưng với chừng 75 trái LAW c̣n lại, nếu hoạt động b́nh thường có hiệu quả, cũng dư sức bắn hạ 11 chiếc PT-76, nhất là trong tầm không xa. Rất tiếc, tuy toán diệt chiến xa do Trung Tá Schungel đích thân thành lập đă xử dụng nhiều LAW, nhưng một tỷ số rất caođến 90% đă không nổ, số c̣n lại tuy khai hỏa trúng chiến xa nhưng không gây thiệt hại. Đây là điều rất đáng ngạc nhiên v́ LAW được chế tạo để bắn hạ chiến xa hạng trung như T-54 có vỏ thép dầy hơn PT-76 nhiều. Sau này, có dư luận cho rằng v́ LAW được thả bằng đường hàng không nên không hữu hiệu.
Trong trận đánh, vũ khí chống chiến xa hữu hiệu nhất là khẩu đại bác 106 ly không giật đặt tại mặt Nam hướng về phía Làng Troài. Chỉ riêng khẩu súng này do Trung Sĩ Tiros điếu khiển đă bắn hạ được 3 chiến xa ngay phút đầu tiên. Người ta tự hỏi nếu khẩu đại bác 106 ly thứ hai đặt tại mặt Bắc có người thay thế xạ thủ chính đi phép, rất có thể thêm nhiều chiến xa địch đă bị hạ. Trong tổng số 11 chiến xa địch, có cả thảy 7 chiếc bị bắn cháy tại chỗ, chỉ c̣n 4 chiếc c̣n lại làm mưa làm gió, nếu khẩu 106 thứ nh́ hoạt động hoặc LAW bắn hiệu quả hơn chắc chiến xa địch bị diệt hết.
Một loại vũ khí chống chiến xa rất hữu hiệu nữa là ḿn đặt tại những nơi dự trù chiến xa hoạt động. Quanh trại Làng Vei chỉ có 3 ngả chiến xa có thể dùng để xâm nhập: đó là đường số 9 tương đối lớn từ hướng Tây và hướng Đông và đường từ hướng Làng Troài về phía Nam. Nếu đặt ḿn chống chiến xa tại 3 ngả đường quan trọng này, chắc chắn nhiều xe thiết giáp vỏ mỏng PT-76 của địch sẽ bị tiêu diệt hay ít nhất cũng bị phát hiện sớm. Có lẽ cấp chỉ huy LLĐB cho rằng địch không có thiết giáp nên không nghĩ tới xử dụng ḿn trong hệ thống pḥng thủ.
Một phương tiện khác để phát hiện và có thể tiêu diệt chiến xa địch trước khi chúng xâm nhập hàng rào pḥng thủ là toán tiền đồn. Theo quan niệm pḥng thủ, toán tiền đồn có nhiệm vụ phát hiện địch quân càng sớm càng tốt trước khi chúng vào được căn cứ chính. Chiến xa nặng nề, cần phải có đường di chuyển và nhất là phát ra tiếng máy và tiếng xích sắt lớn nên tương đối dễ phát hiện hơn quân bộ chiến ngụy trang lợi dụng bóng tối len lỏi trong rừng núi. Như trên đă nói, chiến xa địch có thể tiến tới Làng Vei bằng 3 ngả: hướng Tây từ biên giới Lào - Việt, hướng Đông từ Khe Sanh và hướng Nam từ Làng Troài. Để phát hiện địch, chỉ có một Trung Đội Mike Force của Trung Úy Longgrear nằm tiền đồn tại mặt Tây, cách hàng rào pḥng thủ trại chừng 500 thước, c̣n các Trung Đội Mike Force khác được kéo về pḥng thủ trại. Nếu có thêm các toán tiền đồn được đặt tại mặt Nam và mặt Đông, chắc chắn chiến xa địch đă bị phát hiện sớm hơn, không cần phải chờ tới lúc chúng đă tiến sát hàng rào pḥng thủ. Đứng về phương diện chiến thuật, việc đặt toán tiền đồn tại mặt Tây rất hợp lư v́ lực lượng địch được tập trung đông đảo tại vùng biên giới Lào- Việt, do đó, đây là mặt bị đe dọa nhiều nhất và địch có nhiều triển vọng sẽ tấn công từ mặt này. Mặt Đông có căn cứ Khe Sanh của TQLC che chở nên khá an toàn. Riêng mặt Nam tương đối ít bị đe dọa, ít nhất về phương diện chiến xa v́ không có đường lớn dẫn thẳng qua Lào. Có lẽ v́ lư luận như trên nên cấp chỉ huy tại Trại Làng Vei không đặt các toán tiền đồn tại mặt Nam và mặt Đông. Tuy nhiên địch quân có lẽ đă theo dơi và quan sát, thấy toán Mike Force đêm nào cũng nằm tiền đồn một chỗ tại mặt Tây, không có tại mặ Nam và Đông nên nỗ lực chúng đă đi ṿng, đánh từ mặt Nam.
Nói tóm lại, nếu các toán tiền đồn được đặt đúng chỗ, tất cả 11 chiến xa địch đă bị phát hiện sớm khi c̣n bên ngoài trại. Lúc đó quân pḥng thủ có thể phản ứng và phi pháo can thiệp kịp thời. Nếu có thêm ḿn chống chiến xa, thiết giáp địch khó ḷng tiến sát hàng rào pḥng thủ. Dù một số có thể lọt được vào trại, nếu các hỏa tiễn LAW khai hỏa hữu hiệu và cả hai khẩu đại bác 106 ly không giật hoạt động đều ḥa, có lẽ chẳng một chiến xa địch nào chạy thoát. Trên thực tế, tuy bị tiêu diệt 7 nhưng 4 chiến xa c̣n lại của địch đă phá vỡ hệ thống pḥng thủ và gây rối loạn trong trại Lang Vei.
Như vậy, sở dĩ chiến xa địch đạt được thành quả v́ cấp chỉ huy LLĐB đă ước đoán sai lầm khả năng xử dụng chiến xa của địch. Đa số không tin rằng địch có chiến xa nên nhiều biện pháp pḥng ngừa hữu hiệu không được thi hành, hoặc nếu có cũng không đúng mức
Tưởng cũng nên nói thêm, các tài liệu của địch sau này cho biết thay v́ tấn công thẳng từ mặt Tây trên đường số 9, họ đă tận dụng khả năng lội nước của chiến xa PT-76 để tạo yếu tố bất ngờ. Một Tiểu Đoàn PT-76 (-) đă cho xe lội 4 cây số trên sông Sepone về hướng Nam sát biên giới Lào Việt để ém quân tại vùng Làng Troài sâu hơn về phía Nam. Tài liệu địch cũng cho biết nếu chiến xa thành công trong trận Làng Vei mà không bị thiệt hại nặng, họ sẽ dùng chiến thuật tương tự để thanh toán căn cứ TQLC tại Khe Sanh. Nhưng v́ đa số chiến xa bị phá hủy và hư hại nên sau đó chiến xa không c̣n được xử dụng nữa.
2. Phản Ứng Của Các Cấp Chỉ Huy Việt-Mỹ
Sự thành công hay thất bại của một trận đánh hầu như hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của các cấp chỉ huy trực tiếp tại chỗ và các “thẩm quyền” liên hệ từ các Bộ Tư Lệnh hoặc Bộ Chỉ Huy theo hệ thống quân giai. Trong trận đánh tại Làng Vei, cấp chỉ huy then chốt tại chỗ về phía Hoa Kỳ gồm Trung Tá Schungel, Chỉ Huy Trưởng BCH/LLĐB/C; Đại Úy Willoughby Trưởng Trại và Trung Úy Longgrear Chỉ Huy Trưởng Toán Mike Force. Về phía Việt Nam có Trung Úy Phạm Duy Quân Trưởng Trại và Trung Úy Lương Văn Qúy Sĩ Quan Hành Quân. Các cấp chỉ huy “gián tiếp” gồm Đại Tá TQLC Lownds tại Khe Sanh, Thiếu Tướng TQLC Tompkins tại Đà Nẵng và Đại Tướng Wesmoreland Tư Lệnh MACV tại Sài G̣n. Chúng ta thử t́m hiểu những cấp chỉ huy này đă hành xử ra sao trong lúc trại Lang Vei bị tấn công?
Vị sĩ quan có cấp bậc cao nhất tại trại Lang Vei là Trung Tá Schungel, cũng là cấp chỉ huy trực tiếp của Trại Trưởng Willoughby. Khi chiến xa đầu tiên của địch bị phát hiện trong lúc đang phá hàng rào pḥng thủ, Trung Tá Schungel lập tức tổ chức một toán diệt chiến xa bằng hỏa tiễn cầm tay LAW gồm một số sĩ quan Mỹ Việt. Phải công nhận suốt đêm, trong lúc trận đánh tiếp diễn ác liệt, Trung Tá Schungel và toán diệt chiến xa này đă chiến đấu rất dũng cảm, nhiều lần chạy bộ đuổi theo hoặc cận chiến với chiến xa địch, có lúc họ c̣n liệng lựu đạn dưới xích chiến xa để hy vọng chận đứng được chúng. Nhưng đáng tiếc, đa số hỏa tiễn LAW bị “thối” không khai hỏa, bắn trật hoặc trúng chiến xa nhưng không gây thiệt hại. Tổng kết, với gần 100 hỏa tiễn LAW cũng chỉ diệt được một vài chiến xa. Khi không c̣n LAW, toán diệt chiến xa tính rút vào hầm chỉ huy nhưng Trung Tá Schungel cho rằng ở bên ngoài có nhiều hy vọng “sống sót” hơn. Từ đó cho đến khi được cứu thoát vào sáng sớm, Trung Tá Schungel kể như chỉ có thể tự vệ, lo cho sự an toàn của bản thân, không c̣n đóng góp nào đáng kể trong việc pḥng thủ trại.
Nh́n chung, vị sĩ quan cao cấp nhất trong trại đă chiến đấu rất anh dũng, nhưng dưới vai tṛ của một khinh binh chống chiến xa, không phải với cương vị của một cấp chỉ huy thâm niên hiện diện thi thố sở trường lănh đạo chỉ huy của ḿnh. Ngay trong lúc nguy kịch nhất, khi các vũ khí chống chiến xa không c̣n nữa, Trung Tá Schungel đă từ chối không vào hầm chỉ huy để tiếp tay với Bộ Chỉ Huy trại, điều này cho thấy ông không muốn nhận lănh vai tṛ chỉ huy rất cần thiết trong lúc dầu sôi lửa bỏng. Chúng ta có thể nghĩ rằng Trung Tá Schungel, mặc dù là cấp chỉ huy trực tiếp của Đại Úy Trại Trưởng Willoughby, nhưng vẫn tôn trọng nguyên tắc phân quyền để BCH trại tự do điều động. Nhưng nếu Trung Tá Schungel có mặt tại hầm chỉ huy, về mặt tâm lư, chắc Đại Úy Willoughby sẽ yên tâm hơn trong việc điều động lực lượng cơ hữu. Ngoài ra, với cấp bậc cao có uy tín hơn, Trung Tá Schungel có thể tiếp tay đảm trách việc liên lạc với các đơn vị yểm trợ bên ngoài. Rất có thể nếu đích thân Trung Tá Schungel vào máy yêu cầu pháo binh TQLC tại Khe Sanh bắn yểm trợ để chận chiến xa địch đă xâm nhập hàng rào pḥng thủ, trại đă được thỏa măn ngay, không phải hỏi đi hỏi lại xác nhận có chiến xa khiến việc bắn yểm trợ đă chậm trễ đến gần 30 phút. Ngoài ra, để một ḿnh Đại Úy Trưởng Trại Willoughby vừa điều động việc pḥng thủ, vừa liên lạc TQLC, BTL/LLĐB tại Nha Trang, phi cơ không yểm v.v… chắc không thể nào hữu hiệu bằng khi có cấp chỉ huy tiếp tay.
Việc Trung Tá Schungel đảm nhận vai tṛ chỉ huy đúng theo hệ thống quân giai của ḿnh chưa chắc đă thay đổi được cục diện của trận đánh, nhưng ít ra cũng tránh được phần nào rối loạn trong hệ thống chỉ huy và việc yểm trợ chắc sẽ hiệu quả hơn. Rất tiếc điều này đă không xảy ra nên sự đóng góp của “khinh binh” Schungel tuy đáng kể, nhưng trong lúc dầu sôi lửa bỏng, chắc hẳn trại Lang Vei cần tài lănh đạo chỉ huy của một Trung Tá hơn khả năng đuổi theo chiến xa của một khinh binh.
Vị sĩ quan Hoa Kỳ thứ nh́ đóng vai tṛ quan trọng trong trận Lang Vei là Đại Úy Willoughby. Người trại trưởng nhiều khả năng này cũng đích thân coi sóc việc xây dựng trại ngay từ khi được dời tới địa điểm mới, do đó rất quen thuộc với với hệ thống pḥng thủ cũng như địa h́nh, địa vật chung quanh. V́ vị trí chiến lược tối quan trọng nằm án ngữ ngay yết hầu đường xâm nhập của địch từ Lào vào sườn Tây của Việt Nam qua đường số 9 nên Đại Úy Willoughby dự tính thế nào địch quân cũng phải nhổ cái gai này. Do đó, trại được tổ chức với quan niệm “đơn độc chiến đấu, hỗ tương pḥng thủ” bằng cách chia thành 4 khu với công sự và hàng rào pḥng thủ như những tiền đồn biệt lập để có thể tiếp tục chiến đấu dù các khu khác bị tràn ngập, trong lúc có thể liên hoàn yểm trợ lẫn nhau khi cần. Ngoài ra, các công sự chiến đấu cũng được xây cất kiên cố, điển h́nh hầm chỉ huy được xây ngầm dưới đất bằng xi măng cốt sắt. Theo dự trù, trại có thể giữ vững dù bị địch tấn công cấp Trung Đoàn.
Tất cả những dự tính của Trại Trưởng Willoughby đều trở thành sự thật và ông có biện pháp đề pḥng thỏa đáng trước kế hoạch tấn công của địch, ngoại trừ yếu tố thiết giáp. Tuy có xin tăng cường một số vũ khí chống chiến xa như hai khẩu đại bác không giật 106 ly để pḥng thủ mặt Bắc hướng về đường số 9 và mặt Nam hướng về đường Làng Troài cùng 100 hỏa tiễn chống chiến xa cầm tay LAW, nhưng ông vẫn không hoàn toàn tin rằng địch có thể xử dụng thiết giáp làm mũi dùi xung kích dẫn đầu bộ binh. Theo ước tính của ông, nhiều lắm địch chỉ có thể dùng đại pháo trên chiến xa để bắn yểm trợ từ bên ngoài trại, do đó ḿn chống chiến xa không được xử dụng và hỏa tiễn LAW cũng không được thực tập thỏa đáng. Ông cũng không cho nằm tiền đồn tại mặt Nam v́ nghĩ rằng địch không tấn công từ hướng này.
Ngay khi khởi đầu trận đánh, Đại Úy Willoughby đă có mặt trong hầm chỉ huy, vừa điều động các đơn vị trực thuộc chống trả khá hữu hiệu, vừa yêu cầu pháo binhTQLC tại Khe Sanh yểm trợ theo kế hoạch dự trù. Rất tiếcTQLC không tin có chiến xa địch nên việc yểm trợ chậm trễ gần nửa tiếng đồng hồ và hỏa tiễn LAW không hữu hiệu khiến chiến xa địch lọt được vào trong trại. V́ không c̣n bị ngăn cản nên chiến xa địch mặc sức làm mưa làm gió, cán sập các các công sự pḥng thủ hoặc trực xạ thổi bay các pháo đài. Dù t́nh h́nh nguy ngập chỉ c̣n hầm chỉ huy ngầm dưới đất chưa bị địch chiếm, Đại Úy Willoughby cùng BCH trại vẫn cầm cự tới cùng, trong lúc điều chỉnh phi cơ không yểm. Tới khi cả hai cửa hầm chỉ huy bị bắn sập và chiến xa địch nghiền nát nóc hầm trong lúc địch khoan tường đặt chất nổ và thả lựu đạn vào, Đại Úy Willoughby vẫn không đầu hàng. Sau cùng, khi trời rạng sáng, với không yểm và quân tăng viện từ bên ngoài hoạt động khá hữu hiệu, Đại Úy Willoughby cùng BCH chạy được ra ngoài và được Trung Úy Lương Văn Qúy lái xe cứu thoát đưa về Trại Làng Vei cũ.
Có thể nói Đại Úy Trại Trưởng Willoughby đă làm tṛn nhiệm vụ của cấp chỉ huy, điều động binh sĩ thuộc quyền chiến đấu anh dũng dù bị chiến xa địch khống chế. Chỉ tiếc rằng ông và trại Làng Vei đă phải chiến đấu đơn độc, không được sự trợ giúp hữu hiệu của các cấp chỉ huy cũng như các đơn vị bạn bên ngoài.
Vị sĩ quan HK thứ ba có mặt trong trại có thể trợ giúp đắc lực trong việc pḥng thủ là Trung Úy Longgrear chỉ huy toán Mike Force tăng phái gồm chừng 200 người Thượng Hrê. Thoạt đầu, toán Mike Force được dùng để thám sát và làm tiền đồn bên ngoài, sau đó, một số lớn được kéo vào trong trại để tăng cường pḥng thủ. Trong lúc xảy ra trận đánh, Trung Úy Longgear nhập vào toán diệt chiến xa do Trung Tá Schungel thành lập. Với 200 tay súng, toán Mike Force là một lực lượng pḥng thủ rất đáng kể có thể thay đổi cục diện trận đánh nếu được điều động đúng lúc và đúng mức. Riêng cá nhân Trung Úy Longgrear chiến đấu can dảm dù bị thương nhiều lần. Anh cố thủ trong hầm chỉ huy cho tới trời sáng. Khi chạy thoát thân, anh bị thương què chân lần nữa, tưởng đă nằm chờ chết, nhưng anh thuật lại v́ thấy được Chúa Trời nên thêm sức mạnh gượng dậy chạy tiếp, may gặp được Trung Úy Qúy liều chết lái xe đón ngoài trại. V́ trong cơn nguye biến đă “được Đức Chúa Trời” cứu giúp toàn mạng nên sau này khi trở về Hoa Kỳ, anh Longgrear trở thành một Thầy Giảng ngoan đạo.
Sau này, theo sách vở Hoa Kỳ, anh Longgrear thuật lại trường hợp “gặp Đức Chúa Trời” đại khái như sau: “Khi chạy ra khỏi hầm chỉ huy, cả toán bị một tổ đại liên của địch đốn ngă. Longgear vừa chạy, vừa bắn nguyên băng đạn súng M-15 gồm 18 viên vào ổ súng địch, cho đến khi ngă xuống v́ cẳng chân đă bị gẫy từ trước không chịu nổi. Anh tưởng đă đến giờ tận số. Đúng vào giây phút thập tử nhất sinh này, quan niệm về cuộc đời của anh đột nhiên thay đổi. Tất cả h́nh ảnh, âm thanh dường như lắng đọng, kể cả các máy bay trên trời và các tiếng động chung quanh, như định mệnh đang chờ đón. Longgrear nhớ lại ḿnh cầu nguyện “lạy Trời đừng để con chết, con chưa muốn chết”. Đột nhiên, anh t́m thấy một cảm giác rất yên b́nh không c̣n sợ chết nữa và thực tế cũng trở lại với tất cả sôi động của chiến trường. Longgrear vùng dậy, dùng súng như cây gậy chống chạy toát theo những người khác.”
Bookmarks