
Originally Posted by
Nguyễn Kiến-Hưng
Câu " VN đă là thành viên LHQ th́ mọi công ước quốc tế mà VN đă từng cam kết th́ phải tôn trọng, nhà nước cũng vậy, và người dân cũng vậy " rất...TràĐá. Thực tế th́ năm nào quốc hội Mỹ cũng thấy Việt Cộng vi phạm nhân quyền và muốn đưa trở lại danh sách các nước cần được quan tâm. Gần đây nhất là vụ chị gia đ́nh Dương Thị Tân (Vợ Blogger Điếu Cày) bị chính quyền dùng đủ mọi thủ đoạn hèn hạ để đàn áp đè bẹp tiếng nói của họ. Những thủ đoạn đàn áp người dân của bọn Việt Cộng đó có phải là đang tuân thủ theo bản Quốc Tế Nhân Quyền mà chúng đă cam kết với thế giới không?
Rất mong TràĐá đọc bài Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền rồi thành thật cho biết bọn Việt Cộng đă thi hành/tôn trọng điều khoản nào và đă vi phạm điều khoản nào.
Xin đăng lại đây bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền nếu TràĐá chưa từng đọc qua.
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc là tuyên ngôn đưa ra một quan điểm về các quyền con người cơ bản như quyền sống, quyền tự do và an ninh thân thể, quyền tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm,...
Tuyên ngôn về Nhân quyền (Tuyên ngôn Nhân quyền) là một tuyên bố được thông qua tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de Chaillot ở Paris. Bản Tuyên ngôn đă được dịch ra ít nhất là 375 ngôn ngữ và tiếng địa phương. [1] Tuyên bố phát sinh trực tiếp từ những kinh nghiệm của thế chiến thứ hai và đại diện các biểu hiện đầu tiên trên toàn cầu các quyền mà tất cả mọi người được hưởng. Nó bao gồm 30 điều đă được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế, thỏa ước nhân quyền khu vực, hiến pháp và luật pháp quốc gia. Luật quốc tế về nhân quyền bao gồm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xă hội và văn hoá, và Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và hai Nghị định thư không bắt buộc. Năm 1966, Đại hội Đồng đă thông qua hai Giao ước chi tiết, quan đó hoàn thành Luật Quốc Tế Nhân Quyền.
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xă hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản tuyên ngôn, dùng truyền đạt và giáo dục để nỗ lực thúc đẩy tôn trọng các quyền tự do này.
Điều khoản cuối cùng của bản Tuyên ngôn có viết "Không được phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản tuyên ngôn này theo hướng ngầm ư cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào nêu trong Bản tuyên ngôn này".
Nội dung chính
• Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc
Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm của tất cả con người trong đại gia đ́nh nhân loại và những quyền b́nh đẳng không thể tước đoạt của họ là nền tảng của tự do, công lư và ḥa b́nh trên thế giới.
Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đă dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng sự tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không c̣n lo sợ hăi và nghèo khó, phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.
Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.
Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến khích và mở rộng.
Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng đồng Liên Hiệp Quốc đă lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị con người, vào quyền b́nh đẳng nam nữ và cũng đă quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xă hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.
Xét rằng: Các quốc gia hội viên đă cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.
Xét rằng: Sự hiểu biết chung về nhân quyền và tự do là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.
Do đó, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc long trọng công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xă hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.
Mặt khác, bằng những phương thức tiến bộ trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự thừa nhận và tuân hành Bản Tuyên Ngôn một cách có hiệu lực, trong các dân tộc của các nước thành viên, và ngay cả trong những người dân sống trên các phần đất thuộc quyền cai quản của các nước đó.
Điều 1:
Mọi người sinh ra đều được tự do và b́nh đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lư trí và lương tâm và v́ thế phải đối xử với nhau trên tinh thần bác ái.
Điều 2:
Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do được công bố trong Bản Tuyên Ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xă hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với con người sống trên một quốc gia hay trên một lănh thổ, căn cứ trên cơ chế chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lănh thổ đó. Cho dù quốc gia hay lănh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị hay ở trong t́nh trạng bị hạn chế về chủ quyền.
Điều 3:
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.
Điều 4:
Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đ̣i. Chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi h́nh thức đều bị nghiêm cấm.
Điều 5:
Không một người nào phải chịu cực h́nh, tra tấn, hay bất kỳ h́nh thức đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách lăng nhục.
Điều 6:
Ở bất cứ nơi nào, mỗi người đều có quyền được công nhận tư cách con người của ḿnh trước pháp luật.
Điều 7:
Tất cả mọi người đều b́nh đẳng trước pháp luật, và phải được bảo vệ một cách b́nh đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi kích động dẫn đến kỳ thị như vậy.
Điều 8:
Mọi người đều có quyền được bảo vệ và bênh vực bởi các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi vi phạm các quyền căn bản, do Hiến Pháp và Luật Pháp quy định.
Điều 9:
Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày một cách độc đoán.
Điều 10:
Mọi người đều có bằng nhau quyền được phân xử công khai và công bằng, trước một ṭa án độc lập và vô tư, để được phán quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của ḿnh, hay về những tội phạm mà ḿnh bị cáo buộc.
Điều 11:
1. Khi truy tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên ṭa công khai và ṭa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự.
2. Không ai có thể bị kết án khi có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp. Tương tự như vậy, không được áp đặt một h́nh phạt nào nặng hơn h́nh phạt được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.
Điều 12:
Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán về đời sống riêng tư, gia đ́nh, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng tăm của ḿnh. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ, trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy.
Điều 13:
1. Mọi người có quyền tự do di chuyển và cư trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia.
2. Mọi người đều có quyền rời khỏi lănh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của ḿnh, và quyền trở về xứ sở.
Điều 14:
1. Trước sự ngược đăi, mọi người đều có quyền tị nạn và t́m sự dung thân tại các quốc gia khác.
2. Quyền này không được kể đến, trong trường hợp bị truy nă thật sự v́ các tội phạm không có tính chính trị, hay do những hành vi trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
Điều 15:
1. Mọi người đều có quyền có quốc tịch.
2. Không một ai bị tước bỏ quốc tịch, hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch, một cách độc đoán.
Điều 16:
1. Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đ́nh, mà không bị hạn chế về lư do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền b́nh đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn.
2. Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai đều được tự do quyết định và đồng ư thật sự.
3. Gia đ́nh phải được xem là một đơn vị tự nhiên và căn bản của xă hội, và được quyền bảo vệ của xă hội và quốc gia.
Điều 17:
1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.
2. Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của ḿnh một cách độc đoán.
Điều 18:
Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của ḿnh, với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay nơi chốn riêng, bằng sự truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.
Điều 19:
Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do t́m kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới.
Điều 20:
1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách ôn ḥa .
2. Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể.
Điều 21:
1. Mọi người đều có quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của ḿnh, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được tuyển chọn một cách tự do.
2. Mọi người đều có quyền đón nhận những dịch vụ công cộng của quốc gia một cách b́nh đẳng.
3. Ư muốn của người dân phải là nền tảng của quyền lực chính quyền. Ư muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự , bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và b́nh đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương đương của bầu cử tự do.
Điều 22:
V́ là thành viên của xă hội, mỗi người đều có quyền an ninh xă hội, qua các cố gắng của quốc gia và hợp tác quốc tế, dựa theo phương cách tổ chức và tài nguyên của mỗi nước. Quyền này được đặt trên căn bản của sự thụ hưởng những quyền về kinh tế, xă hội và văn hóa, cần thiết cho nhân phẩm và sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
Điều 23:
1. Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm việc chính đáng và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất nghiệp.
2. Mọi người, không v́ lư do kỳ thị nào, đều có quyền được hưởng lương bổng như nhau cho cùng một công việc.
3. Mọi người làm việc đều được quyền hưởng thù lao một cách công bằng và thích hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản thân và gia đ́nh ḿnh một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng như được trợ giúp nếu cần, qua các phương thức bảo vệ xă hội khác.
4. Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ quyền lợi của ḿnh.
Điều 24:
Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, kể cả việc hạn chế hợp lư số giờ làm việc, và các ngày nghỉ định kỳ có trả lương.
Điều 25:
1. Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đ́nh bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xă hội cần thiết, quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, góa bụa, tuổi già hay các t́nh huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát của ḿnh.
2. Các bà mẹ và trẻ con phải được hưởng sự chăm sóc và trợ giúp đặc biệt. Tất cả mọi trẻ con, sinh có hôn thú hay không, đều được xă hội bảo vệ một cách b́nh đẳng.
Điều 26:
1. Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và căn bản. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng b́nh đẳng cho mọi người, trên căn bản tài năng xứng đáng.
2. Giáo dục phải được điều hướng để phát triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự cảm thông, ḷng khoan dung, và t́nh hữu nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, và hỗ trợ việc phát triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc nhằm duy tŕ ḥa b́nh.
3. Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa phương cách giáo dục dành cho con cái ḿnh.
Điều 27:
1. Mọi người đều có quyền tự do tham gia sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng chia sẻ các tiến bộ khoa học cũng như các lợi ích của khoa học.
2. Mọi người đều có quyền được bảo vệ về tác quyền, trên b́nh diện tinh thần cũng như quyền lợi vật chất, đối với các tác phẩm khoa học, văn chương, hay nghệ thuật.
Điều 28:
Mọi người đều có quyền đ̣i hỏi được sống trong một trật tự xă hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các tự do được đề cập trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ.
Điều 29:
1. Mọi người đều có bổn phận đối với cộng đồng nào mà chỉ trong đó mới có thể phát triển toàn vẹn và tự do nhân cách của ḿnh.
2. Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa măn những đ̣i hỏi chính đáng về luân lư, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xă hội dân chủ.
3. Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
Điều 30:
Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này được hiểu và hàm ư cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền có những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được thừa nhận trong bản Tuyên Ngôn này.
Liên Hiệp Quốc, ngày 10 tháng 12 năm 1948
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%C3%AAn_ng%C3%B4n _Qu%E1%BB%91c_t%E1%B A%BF_Nh%C3%A2n_quy%E 1%BB%81n
Không phải ai cũng như Phù Đổng Thiên Vương vươn vai một cái th́ biến thành người khổng lồ. Không ai đ̣i hỏi những tên đầu sỏ ở Hà Nội phải được như Lư Quang Diệu của Tân Gia Ba; nhưng điều làm cho đất nước suy đồi lạc hậu so với thế giới là v́ chúng là bọn chính trị gia đom đóm - sáng đàng đít nhưng tối đàng đầu. Chúng có đầy thủ đoạn để cướp chính quyền và lộng quyền nhưng lại không có khả năng làm cho quốc thái dân an. Cái tệ hại nhất của bọn chúng là tuy chúng biết chúng làm sai nhưng cố dùng tất cả mọi thủ đoạn để che đậy lấp liếm các sai lầm đó; và càng che đậy chúng càng lún sâu vào cái sai lầm và c̣n phạm thêm những sai lầm khác.
Nếu TràĐá nghĩ đến tiền đồ của đất nuớc và sự tồn vong của dân tộc th́ phải thấy rằng CSVN phải trả lại quyền làm người cho dân chúng để họ nói lên cái sai cái dở của chế độ và của các quan chức. Một khi những sai lầm khuyết điểm được đưa ra ánh sáng, bọn sâu dân mọt nước và những kẻ bất tài, tham nhũng hối lộ sẽ bị sa thải để thay thế bằng những người tài đức có khả năng để đáp ứng với những nhu cầu cải cách cấp bách của đất nước. Có như vậy mới nảy sinh động lực thúc đẩy cải cách cho phù hợp với nhu cầu phát triển của vận hội mới, thời đại mới, và may ra Việt Nam trong tương lai mới có hy vọng thực sự độc lập và sánh vai cùng các quốc gia tân tiến trong vùng.
TràĐá không thấy là quá hợm hĩnh khi tự hào về hiện trạng của nước Việt Nam sao?
Nói về quân sự, quân đội Bắc Việt chưa thắng nổi quân đội Miền Nam. Chính TràĐá cũng cho rằng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu v́ muốn làm eo sách với Mỹ nên mới ra lệnh triệt thoái Cao Nguyên, vốn là trọng điểm để bảo vệ Miền Nam, và cũng v́ vậy mà đoàn quân xâm lăng Bắc Việt mới có cơ hội nhuộm đỏ Miền Nam. Cho nên tuy dù thắng trận năm 1975 nhưng không thể nói Bắc Việt có đoàn quân tinh nhuệ hay những chiến thuật của họ là hữu hiệu hơn quân đội VNCH.
Đáng lẽ Việt Cộng nên dùng những danh tướng Miền Nam để bổ xung cho những thiếu sót khuyết điểm trong quân đội Miền Bắc và cùng với quân đội và dân Miền Nam cùng nhau xây dựng đất nước như người Mỹ sau cuộc Nội Chiến Nam Bắc Phân Tranh. Lúc đó vị tướng chỉ huy quân đội Miền Nam là tướng Robert Lee phải kư giấy đầu hàng tướng quân đội Miền Bắc là tướng Grant. Tuy bại trận, nhưng tướng Lee đă được tiếp đón như một vị anh hùng và nổi bật hơn là kẻ thắng trận là tướng Grant. Tại sao vậy, v́ người Mỹ họ thật t́nh muốn kiến thiết đất nước của họ. Đối với họ cuộc nội chiến là một bất hạnh cho đất nuớc. TràĐá hăy xem lại đoạn lịch sử sau đây để so sánh cách cư xử của người Mỹ khi Miền Nam bại trận và ngày 30 tháng tư của Việt Nam. TràĐá có đau ḷng mà công nhận rằng CSVN đă cho thế giới thấy tŕnh độ dân trí của dân Việt Nam c̣n thua rất xa tŕnh độ dân trí của dân Mỹ cách đây hơn 150 năm.
Ngày April 8/1865 của Hoa Kỳ và ngày April 30/1975 của Việt Nam
Lúc bấy giờ là đêm ngày 8 tháng 4 năm 1865, Đại tướng Robert Lee, thống lănh quân đội miền Nam, cùng Ban Tham Mưu ngừng chân đặt bản doanh bộ chỉ huy trong một cánh rừng gần Toà Thị Xă Appomattox, thuộc tiểu bang Virginia. Sáu ngày liên tiếp trước đó đạo quân miền Nam đă đi không ngừng nghỉ tiến về phía Tây hướng về dăy núi Blue Ridge, nơi tướng Lee từng tuyên bố ông có thể cầm cự chiến đấu ít nhất là 20 năm.
Nhưng đêm nay khi tướng Lee và Bộ Tham Mưu mệt mỏi của ông dừng quân tại Appomattox th́ đạo quân miền Nam đang bị quân đội miền Bắc bao vây, lương thực cạn, hy vọng tiếp tế không có, hy vọng tăng viện cũng không. Xa xa tiếng đại bác xé màn đêm dội về... Tất cả hy vọng của tướng Lee lúc này chỉ c̣n đặt vào một vị tướng trẻ gan dạ, John Gordon. Vị tướng này sáng sớm hôm sau sẽ tiến quân chọc thủng pḥng tuyến bao vây của quân đội miền Bắc.
Cách đó không xa, viên sĩ quan phụ tá của tướng Grant, thống lănh quân đội miển Bắc, bước vào pḥng riêng của tướng Grant để đánh thức ông dậy. Người sĩ quan hầu cận vội mang đến tướng Grant một tách cà phê nóng hổi. Tách cà phê dẫu có giúp nhẹ đi cơn nhức đầu nhưng không làm giảm bớt mối căng thẳng lo âu của tướng Grant. Sau cùng tướng Grant kéo ghế ngồi, và khởi sự thảo bức thư trả lời thư mới nhận được từ tướng Robert Lee. “Tôi rất muốn hoà”, tướng Grant viết, “và mong muốn kết thúc cuộc chiến mà không phải tổn thất thêm một nhân mạng nào nữa. Nhưng cuộc hội kiến do Đại Tướng đề nghị vào 10 giờ sáng hôm nay không có một lợi ích nào cụ thể và tôi không có thẩm quyền quyết định hoà hay chiến.” Nhưng bức thư của tướng Grant chưa kịp đến tay tướng Lee, tiếng súng đă lại bắt đầu nổ.
5 giờ sáng, sương mù c̣n bao phủ rặng đồi bên kia Appomattox. Loạt đạn đầu tiên xé màn sương, đánh thức sáng chủ nhật 9/Apr/1865, tiếp theo là tiếng thét tiến quân của quân đội miền nam. Từng đợt tấn công của tướng Gordon đă đánh bật tuyến pḥng thủ đầu của quân miền Bắc, chiếm nhiều cỗ súng đại bác, đánh bạt hai bên mở rộng đường tiến quân, và ào ạt tiến lên đồi. Nhưng từ phiá bên kia đồi, quân miền Nam đă đụng phải một bức tường dày đặc, kéo dài hơn 2 dặm, cuả hai đơn vị bộ binh quân đội miền Bắc. Và ép từ phiá sau là hai đơn vị bộ binh khác của quân miền Bắc tiến lên. Quân miền Nam bị ép vào giữa, tiến không được, lui cũng không xong, và “chém vè” cũng không được.
Chỉ trong ṿng 3 tiếng đồng hồ sau, tướng Lee được tin khấp báo của tướng Gordon “Quân sĩ của tôi đă chiến đấu hết ḿnh. Tŕnh Đại Tướng tôi không làm ǵ hơn được nữa!”. Lập tức tướng Lee triệu tập Ban Tham Mưu thâu hẹp để quyết định hoà hay chiến. Tướng Lee nói với các tướng bao quanh: “Giờ đây tôi chẳng c̣n làm ǵ hơn là đến tŕnh diện và đầu hàng trước tướng Grant”.
Nơi được chọn để nghị hoà là một căn nhà nhỏ mái ngói thuộc Appomattox, một thị xă hẻo lánh nằm vào phiá Nam tiểu bang Virginia. Có độ chừng 20 căn phố, lèo tèo vài cửa hàng nhỏ, một lữ quán và toà thị xă. Khi mặt trời leo lên cao là lúc tướng Lee đă đến điểm hẹn, ông bước theo sự hướng dẫn của vị sĩ quan tuỳ viên và một sĩ quan tham mưu thuộc Bộ Tham Mưu của Tướng Grant. Tướng Lee, uy nghi trong bộ binh phục đại lễ, hông đeo trường kiếm, ngồi xuống cạnh một chiếc bàn gỗ nhỏ. Giờ đây ông đă có mặt ngay trong ḷng đất đối phương.
Vào khoảng nửa tiếng sau, tiếng giày nện trên sàn gỗ và tướng Grant bước vào. Khác hẳn với tướng Lee, tướng Grant không đeo kiếm, không mặc quân phục, quần và đôi ủng lấm đầy bùn.
Theo yêu cầu của tướng Lee, tướng Grant đích thân thảo bản văn kiện chính thức đầu hàng của quân đội liên hiệp miền Nam và sau tự tay trao cho tướng Lee xem lại. Chậm răi, từ tốn, tướng Lee rút cặp kiếng đeo mắt, lấy khăn lau kỹ lưỡng, đeo kính lên và chăm chú đọc.
“….Vũ khí, đại bác và các tài sản công phải được liệt kê, sắp xếp và giao nộp cho một viên sĩ quan do tôi chỉ định. Những vũ khí này sẽ không gồm có vũ khí cá nhân của các sĩ quan, cũng như ngựa và tư trang của họ. Sau khi hoàn tất, mọi sĩ quan và binh sĩ sẽ được phép trở về nguyên quán, và sẽ không bị quấy nhiễu bởi các cơ quan cầm quyền chừng nào họ tôn trọng lệnh đầu hàng và tuân theo luật lệ địa phương nơi họ cư ngụ.”
Lần đầu tiên trong buổi hội kiến, gương mặt của tướng Lee tươi hẳn. Như vậy có nghĩa là sĩ quan và binh sĩ dưới quyền của ông sẽ không bị giam giữ như tù binh chiến tranh. Có nghĩa là họ sẽ không bị đem ra bêu riếu diễn hành hạ nhục trên các đường phố. Có nghĩa là họ sẽ không bị mang ra toà truy tố về tội phản loạn.
Tướng Lee nói, “Thưa Đại Tướng, những điều kiện đầu hàng thế này sẽ có ảnh hưởng rất tốt với quân đội của tôi.” Và tướng Lee nói tiếp, “Nhưng thưa ngài, trong quân đội miền Nam cuả tôi, ngay cả binh sĩ khi gia nhập cũng mang theo ngựa của họ vào quân đội.”
Tướng Grant nói ông sẽ không thay đổi ǵ trong văn kiện đầu hàng, nhưng sẽ ra khẩu lệnh cho phép mọi binh sĩ miền Nam được phép mang ngưạ và lừa về quê quán để sử dụng trong việc trồng trọt ở các nông trại.
Trận đánh quyết định tại Five Forks (Tháng Tư 1865)
Tướng Lee c̣n thêm một lời yêu cầu nữa. Ông tŕnh bày cho tướng Grant biết ông c̣n giam giữ hơn một ngàn tù binh quân đội miền Bắc nhưng không có lương thực cung cấp cho họ và ngay chính quân đội của ông cũng không c̣n lương thực. Không ngập ngừng, tướng Grant đề nghị sẽ ra lệnh xuất kho cấp ngay khẩu phần cho hơn 25,000 quân sĩ của quân đội liên hiệp miền Nam.
Tướng Grant hỏi, “Như vậy, đủ chưa?”
“Thưa, quá đủ, quá đủ, thưa đại tướng.” Tướng Lee trả lời.
Tướng Lee đứng dậy, lần lượt bắt tay các sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của tướng Grant, bắt tay tướng Grant, nghiêng ḿnh chào tất cả mọi người có mặt và bước ra khỏi pḥng họp.
Tướng Grant và ban sĩ quan tham mưu đă đứng sẵn ở bao lơn trước căn nhà, nơi đôi bên nghị hoà. Khi ngựa tướng Lee rảo bước đi qua, cặp mắt của hai vị tướng quân chạm nhau trong giây phút, họ đồng ngả nón chào nhau. Trên bao lơn xung quanh tướng Grant và suốt trong sân trước căn nhà lịch sử, sĩ quan và binh sĩ miền Bắc đều đưa tay chào kính vị tướng bại trận quân đội liên hiệp miền Nam.
Tin đồn đầu hàng của tướng Lee tràn lan mau chóng như thuốc súng. Khắp nơi binh sĩ miền Bắc reo mừng. Họ liệng lên không trung mũ nón, giày, bao đạn, áo hay bất cứ vật ǵ có thể ném tung lên được. Họ ôm nhau, hôn nhau. Súng ống các loại, kể cả đại bác bắt đầu nổ. Thế nhưng tướng Grant nhanh chóng ra lệnh ngưng ngay tức khắc những biểu lộ nỗi vui mừng của binh sĩ miền Bắc. “Rồi sẽ có ngày mừng chiến thắng”, tướng Grant giải thích, “Nhưng không phải là ngày hôm nay. Quân đội miền Nam đă đầu hàng. Chúng ta không được phép reo mừng trên chiến bại của họ”. Điều quan trọng với tướng Grant là phải làm sao để thắng trận, đồng thời cũng phải ǵn giữ cho bằng được sự toàn vẹn t́nh cảm giữa những người cùng trong cộng đồng dân tộc Hoa Kỳ.
4:30 chiều ngày 9 tháng 4, 1865, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh tại Hoa Thịnh Đốn nhận được một điện văn ngắn ngủi của tướng Grant, “Tướng Lee đă buông súng đầu hàng quân đội miền Nam theo những điều kiện do tôi ấn định.”
Cách đó không bao xa, tướng Lee cỡi ngưạ trở về bản doanh của ḿnh. Dọc hai bên đường, binh sĩ miền Nam nghiêm chào vị tướng lănh mà họ tôn sùng. Nhiều người bật khóc, phủ phục bên đường. Tướng Lee cũng không cầm được nước mắt. Về đến đại bản doanh, trước mặt sĩ quan và binh sĩ đứng chờ, tướng Lee hướng về họ và nói: ”Tôi đă cố gắng làm tất cả những ǵ có thể làm được. Và nay ḷng tôi nặng chĩu và không thể nói ǵ hơn”.
Bước đi vài bước, ông dừng lại và thêm: “Các anh em hăy trở về quê quán. Và nếu các ngươi sống được như những công dân tốt như các anh em đă từng chiến đầu như các chiến sĩ th́ các ngươi sẽ thành công rồi. Và tôi sẽ luôn luôn hănh diện v́ các anh em.” Và tướng Lee biến ḿnh vào trong lều vải của ḿnh.
Điều kiện đầu hàng được hai tướng Lee và Grant kư kết tại Appomattox ngày 9 tháng 4, 1865 th́ 3 ngày sau, ngày 12 tháng 4 mới là ngày quân liên hiệp miền Nam chính thức buông súng đầu hàng.
Hai đạo quân dàn đôi bên con đường chạy theo phiá Đông rừng Appomattox. Chỉ huy cánh quân miền Bắc và điều khiển buổi lễ là tướng Chamberlain, nguyên là một giáo sư đại học, Huy Chương Danh Dự, hai lần bị thương trên chiến trường.
Chỉ huy 28,000 sĩ quan và binh sĩ liên hiệp miền Nam là tướng Gordon, một trong những cận tướng can trường của Đại tướng Lee, 4 lần bị thương tại mặt trận, một lần bị trúng đạn xuyên qua mặt.
Tướng Chamberlain đă ghi lại trong hồi kư cuả ḿnh: ” Từng đoàn, từng đoàn, họ tiến bước theo nhịp quân hành, ép chặt vào nhau giống như một gịng người đội vương miện màu đỏ ối, giương cao quân kỳ và hiệu kỳ. Đây là những người mà gian lao, đau khổ, nhọc nhằn, kể cả tử thần không bẻ cong được quyết tâm của họ. Họ đứng thẳng hàng trước mặt đoàn quân chúng tôi, một đoàn quân tơi tả, xương xẩu, nhưng hiên ngang, mắt sáng ngời chiến thắng, họ là những h́nh ảnh sống phản ảnh mối liên hệ thắm thiết chỉ có thể có giữa những đồng đội trên chiến trường”.
Không hề dự định trước, cũng như không hề được chuẩn y trước, tướng Chamberlain bất thần hô lớn ra lệnh, “Bồng súng chào!” cho quân đội miền Bắc. Một tiếng kèn lệnh vang lên, và lập tức toàn thể đoàn quân miền Bắc bồng súng lên vai, tiếng báng súng rập khuôn vang lên.
Phiá đối diện, tướng Gordon thúc nhẹ con tuấn mă khụy hai chân trước xuống, người và ngựa cùng cúi đầu, gươm tuốt trần chúc mũi trong một dáng đ́ệu hùng vĩ tuyệt vời. Cùng lúc, đoàn quân miền Bắc chuyển qua bồng súng nghiêm chào. Họ chào những “anh hùng bại trận”, họ bày tỏ sự kính trọng của những người Hoa Kỳ đối với những người Hoa Kỳ.
Và phiá hàng quân miền Bắc tiếp tục giữ đúng thế nghiêm. Không có thêm một tiếng kèn. Không có một tiếng trống. Không có một tiếng hô chiến thắng. Không có một tiếng nói. Không cả một tiếng thầm th́. Mà chỉ c̣n là một hàng quân im phăng phắc. Mọi nhịp thở như ngừng lại.
Buổi lễ đầu hàng kéo dài 7 tiếng đồng hồ. Gần 28,000 người, trên 100,000 tấn vũ khí, đạn dược, quân kỳ, hiệu kỳ lần lượt bỏ xuống. Từng đơn vị tiến lên, gác súng, tháo bao đạn, và xếp súng xuống. Kế đến họ tŕu mến cuốn hay xếp quân kỳ, hiệu kỳ, lắm cái tơi tả và lắm cái nhuộm máu đă khô, sau cùng họ khẽ đặt những lá cờ kia xuống mặt đất…
Tại sao người Mỹ lại có được tháng 04/1865 tuyệt vời như thế kia? Tuyệt vời bởi lẽ cả người thắng lẩn kẻ bại đều thiết tha và chân thành tôn kính lẩn nhau. Tuyệt đối không có cảnh “nhảy múa trên đau khổ của kẻ bại”. Người đích thực là kẻ chiến thắng trong 04/1865 chính là dân tộc Hoa Kỳ.
Mang tháng 04/1865 đặt cạnh tháng 04/1975, mọi người, kể cả những người khác biệt chính kiến, đều có thể dễ dàng nhận ra những khác biệt lớn lao v́ Chiến bại tháng 04/1975 là chiến bại của một quân đội bị “Đồng Minh” đâm sau lưng.
- Sau 04/1865, quân Bắc Mỹ không hề trả thù quân Nam Mỹ. Tất cả h́nh thức ăn mừng chiến thắng đều bị ngăn cấm. Chẳng những không bị ngược đăi, quân Nam Mỹ c̣n được Bắc quân trao tặng hơn hai mươi lăm ngàn 25000 phần ăn như một lời chúc thượng lộ b́nh an trên con đường trở về quê hương gốc. Sau 04/1975, CSVN ra lệnh mang ra chợ xử bắn những quân cán chính nào của VNCH mà Hà Nội gán cho danh hiệu “ác ôn”. Mặt khác, tất cả thương bệnh binh của VNCH lập tức bị đuổi ra khỏi toàn bộ hệ thống quân y viện của Miền Nam Việt Nam. Đó là lư do giải thích tại sao những ngày đầu tháng 05/1975 vô số thương binh VNCH, kể cả những thương binh vết thương c̣n mới nguyên, lê lết khắp phố chợ làng quê…
- Không một người lính nào trong quân đội Nam Mỹ bị bắt giam như những tù binh. Ngược lại, tại Việt Nam 04/1975, CSVN bắt giam nhiều trăm ngàn quân nhân từ tướng đến binh (an ninh t́nh báo) của VNCH. Hành động bắt giam này được thực hiện bằng lời kêu gọi mang theo mười ngày lương thực nhằm tạo cho “nạn nhân” hiểu lầm là họ chỉ đi “học tập cải tạo” mười ngày. Trong thực tế 10 ngày có nghĩa là một hai thập niên tù khổ sai
Khi mùa dứt chiến chinh trên quê hương tôi (Tháng Tư 1975)
Tháng 04/1865 quân Bắc Mỹ chỉ tịch thu vũ khí cộng đồng, họ cho phép quan,quân miền Nam giữ lấy ngựa và vũ khí cá nhân như những tài sản riêng. Tháng 04/1975 nhà cửa, xe cộ của sĩ quan cao cấp của VNCH bị tịch thu, vợ con của quân nhân các cấp bị mất việc làm, bị đuổi đi kinh tế mới. Đặc biệt, không chỉ riêng gia đ́nh quân cán chính VNCH mà ngay cả người dân bị goi là “dân vùng ngụy” cũng bị CSVN đánh đ̣n rất cẩn thận: đánh tư sản mại bản, đánh công thương kỹ nghệ gia, đánh tiểu thương, đánh văn nghệ sĩ, đánh tu sĩ các tôn giáo. Nói chung, tháng 04/1975 là ngày ghi dấu toàn bộ xă hội miền Nam Việt Nam biến thành địa ngục trần gian.
Cùng là CON NGƯỜI, tai sao người Mỹ đối xử với người Mỹ khác hẳn CSVN đối xử với người Việt Nam? Phải chăng văn hoá Mỹ khác với văn hoá Cộng Sản?
Posted by Dinh Le at 5:31 AM
http://nhanquyenchovn.blogs pot.com/2010/04/ngay-april-81865-cua-hoa-ky-va-ngay.html
C̣n điều quan trọng nữa, Việt Nam chưa tự chế ra được vũ khí. Nếu có chiến tranh và không ai bán vũ khí đạn dược quân trang quân dụng cho th́ lấy ǵ mà chiến đấu. Nước Tàu sắp xây hệ thống xe lửa tới Lào. Nếu sau này Tàu cộng xúi Lào đánh Việt Nam th́ sao? Vũ khí từ Tàu sẽ chuyển qua Lào dễ dàng và hiện có khoảng hơn 10 ngàn lính Tàu giả dạng công nhân đóng đô tại vùng Cao Nguyên nơi đang khai thác mỏ Bô-xít. Nếu chiến tranh Lào-Việt xảy ra, bọn Tàu ở đây sẽ trợ giúp cho quân đội Lào chiếm vùng Cao Nguyên. Và khi vùng Cao Nguyên trung phần bị lọt vào tay quân Lào và 10 ngàn lính Tàu th́ bối cảnh lúc đó sẽ vô cùng bi đát cho dân Việt Nam.
Về kinh tế, ngành kỹ nghệ nặng th́ đă bị thất bại và thua lỗ nặng qua vụ Vinashin; về công nghệ th́ ngoài việc bán nhân công và sức lao động th́ Việt Nam hiện chưa có hàng hoá ǵ để góp mặt trên thị trường quốc tế cả ngoài những vật liệu chưa được chế biến (raw material)
Về giáo dục, y tế, và văn hóa th́ xin mượn câu thơ của cụ Nguyễn Du:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn ḷng.
Cái khổ của người dân Việt Nam hiện nay là kẻ thống trị chỉ biết lo cho chính bản thân họ mà không hề nghĩ tới đất nước và dân tộc. Một chi tiết nhỏ nhưng nổi bật đó là việc Lê Khả Phiêu bỏ ra hơn 20 ngàn đô la trồng rau cung cấp cho gia đ́nh hắn để tránh phải mua rau ngoài thị trường vốn đă bị ô nhiễm nặng. Lê Khả Phiêu biết lo giữ vệ sinh cho chính hắn nhưng hắn đă có đạo luật ǵ để để cải thiện môi trường cho người dân khi c̣n là Tổng Bí Thư. Và cho đến nay đă qua bao nhiêu khoá họp, có bao giờ họ nhắc tới vấn đề vệ sinh, sức khoẻ, và môi trường sống cho người dân chưa? Hay là chỉ lo ẩu đả đấu đá lẫn nhau để tranh dành quyền lực?
Nguyễn Kiến-Hưng
Bookmarks