Chuyện Thiếu Tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thuỷ và Đại Tá Vơ Bị Lê Thành Long: Từ Đắng Cay Hậu Chiến...(04/07/2012)
Tác giả : Trang Đài Glassey - Trần Nguyễn
Nhân Tháng Tư Đen năm thứ 37, từ nay mỗi cuối tuần, Viết Về Nước Mỹ sẽ là loạt bài đặc biệt do tác giả Trangđài Glassey-Trầnguyễn thực hiện trong Dự án “Tháng Tư Đen, Tháng Tư Sáng” về những ảnh hưởng của tang thương và mất mát trên đời sống t́nh cảm của người Việt hải ngoại qua sự bảo trợ của tiểu bang California cho Chương tŕnh Báo chí về Y tế Sức khỏe (CEHJF), và do Trường Báo chí và Thông tin Annenberg của Đại học University of Southern California tổ chức.
Cô sử dụng phương pháp lịch sử truyền khẩu, cùng kinh nghiệm dấn thân cộng đồng, và tư duy trải nghiệm.
This project “Black April, Bright April” © is produced using oral history, community participation, and lived perspectives. Trangđài Glassey-Trầnguyễn reporting on trauma, loss, and emotional health in the Vietnamese diasporas was undertaken as part of the 2011-12 California Endowment Health Journalism Fellowships (CEHJF), a program of the University of Southern Californias Annenberg School for Communication & Journalism.
CHỦ TRƯƠNG CỦA NGƯỜI THỰC HIỆN:
Từ năm 1976 đến nay, mỗi Tháng Tư là một thời gian hồi tưởng, truy niệm chung cho người Việt hải ngoại. Qua dự án này, tôi muốn quy nhận truyền thống tưởng niệm này của Cộng đồng người Việt hải ngoại.
Đồng thời, tôi cũng muốn đón nhận và đưa lên giá cao những ngọn đèn đă làm cho Tháng Tư 1975 không chỉ c̣n là một ngày của bạo lực và mất mát
. Chúng ta đă xây dựng những Tiểu Việt Nam khắp dọc dài thế giới. Chúng ta đă nuôi dạy nhiều thế hệ trẻ thành nhân tài xứ người. Chúng ta đă xoay ngược thế cờ, dùng sức mạnh của thế giới và tư duy đương đại để ǵn giữ lịch sử và phát triển tương lai. Những ngọn đèn đó vẫn tỏa sáng giữa chúng ta – là chính ông bà, cha mẹ, anh chị em, con cái của chúng ta – đang thắp lên một b́nh minh mới trên những đổ nát hôm qua. Chúng ta không chỉ có một Tháng Tư Đen, mà chính mỗi chúng ta cũng là hiện thân của một Tháng Tư Sáng.
PHẦN 1(4):
MƯỜI BA NĂM KHỔ SAI
Những ngày sau 30 tháng Tư, 1975 chắc chắn là những ngày kinh hoàng nhất cho rất nhiều gia đ́nh tại miền Nam Việt Nam. Nhưng đối với một số người, những ngày ấy kéo dài tưởng như vô tận, đến mười mấy năm, mà mỗi ngày là một thế kỷ của nhọc nhằn và mỗi đêm là một trường canh của kinh sợ.
Cái giai đoạn lịch sử ấy – tuy man rợ và đầy tang thương – nhưng vẫn là một di sản được những người trong cuộc ôm ấp và ǵn giữ. Bởi v́, cái lịch sử ấy chính là một dấu chứng cho niềm tin vào điều thiện và sự vượt qua của những ai c̣n sống sót sau kinh nghiệm hỏa ḷ. Đó có lẽ là lư do mà khi đến Mỹ, Cựu thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy đă mang theo 3 vật rất quan trọng đối với ḿnh. Một đôi găng tay may từ vải vụn, bà đă dùng trong thời gian 13 năm tù cải tạo. Hai chiếc áo tù – một bằng vải thô, và một bằng len, do chính bà đan lại từ hai chiếc áo lạnh cũ đă chật của hai con gái, do mẹ bà gửi vào. Và một cơ thể đă bị phá hủy, thương tật.
Nhưng bà cũng mang theo một gia tài quan trọng hơn cả những vật chứng này – một gia tài không ai có thể tịch thu, đấu tố, hay phá hủy: một ư chí để sống, một nghị lực phục vụ gia đ́nh và xă hội, và một niềm tin mănh liệt vào Chúa. Chính gia tài này đă là cứu cánh cho bà trong suốt 13 năm tù, và quăng đời sau đó.
Trên hai chiếc áo tù đó, số tù – cũng là 'nhân diện' của bà trong mười ba năm khổ sai – đă bắt đầu phai nhạt theo năm tháng. Nhưng những đau đớn về tinh thần lẫn thể xác vẫn c̣n hằn sâu. Có lẽ những thế hệ một và một rưỡi c̣n nhớ và biết cái bi kịch hỏa ḷ tại Việt Nam, nhưng thế giới và những thế hệ Việt ngoại biên vẫn cần một văn khố chính thức về bi kịch này.
Cô dâu Thanh Thuỷ và chú rể Lê Thành Long.
Điều quan trọng là chúng ta không để cho những sự thật về bi kịch này phai nhạt – như những số tù trên áo những người tù khổ sai năm nào. Chúng ta cần ghi lại những đau thương – không v́ hận thù – nhưng v́ để đấu tranh cho Công lư, Ḥa b́nh, Tự do, Bác ái. Đến bao giờ, người Việt hải ngoại mới có một tác phẩm như Quần Đảo Ngục Tù của Aleksandr Solzhenitsyn, người đoạt giải Nobel Văn Chương 1970 với những tác phẩm vạch trần cái hỏa ḷ của Cộng Sản Xô Viết? Những quần đảo ngục tù vẫn c̣n hoành hành trên cơ thể của nhiều con dân Việt và ngay trên đất Việt qua những hậu quả khốc liệt của nó. Đến bao giờ chúng ta mới có một Solzhenitzyn của Việt Nam? V́ nếu những đau thương này đă đến từ bất công, th́ chúng cũng là một mối đe dọa cho con người ở tất cả mọi nơi – như nhà tranh đấu dân quyền Martin Luther King đă nói, "Bất công ở bất cứ nơi nào là bất công ở khắp mọi nơi." Xă hội con người không tách rời nhau bởi biên giới hay ngôn ngữ, mà cộng thông trong lư tưởng công bằng, bác ái, và dân chủ.
Chiếc áo tù ngày nào, tuy nay không c̣n ấm lạnh trên người Nguyễn Thanh Thủy nữa, nhưng kinh nghiệm mười ba năm tù khổ sai là một chiếc áo đầy gai, vẫn châm chích và làm đau đớn tâm hồn và thể xác bà. Hai mươi bốn năm sau khi ra khỏi trại tù, bà vẫn c̣n oằn oại trong những bệnh tật do giai đoạn oan nghiệt này tạo ra, và những kinh hoàng của bốn tháng biệt giam vẫn bám riết tâm trí bà. Chúng ta thử cùng bà ngồi trước màn ảnh của quá khứ, chứng kiến lại những điều mà trước nay bà chưa nói được với ai, v́ nó quá kinh hoàng và khó khăn để thuật lại.
Nguyễn Thanh Thủy nhớ lại, “Vài hôm sau ngày 30 tháng Tư, 1975, tôi bị gọi đến nơi làm việc của Ủy Ban Quân Quản của chế độ Cách Mạng (tức Văn Pḥng Khối Đặc Biệt, đường Cộng Ḥa cũ) để hỏi cung từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Cán Bộ Cộng Sản cho biết, lẽ ra giam cầm tôi luôn, nhưng v́ các con tôi c̣n quá nhỏ, nên mỗi ngày tôi đến đây làm việc rồi về. Họ cho tôi xấp giấy, cây viết, và muốn tôi viết lại quá tŕnh hoạt động. Mỗi ngày tôi chỉ viết lư lịch của ḿnh, rồi tôi nộp, nhưng họ không bằng ḷng. Tôi có cho họ biết là tôi không nhớ ǵ cả, và yêu cầu họ cho tôi thời gian để tập trung trí nhớ. Sau đó, họ giúp tôi bằng cách dẫn tôi đi ṿng quanh khối Đặc Biệt, vào những pḥng làm việc của Khối để nh́n từng nơi xem thấy cái ǵ c̣n, cái ǵ mất. Tôi chú ư đến Văn pḥng của Trưởng Cơ Quan E4, nơi c̣n những bản sơ đồ vẽ hệ thống hoạt động, những bản thuyết tŕnh có ám danh công tác, bí số nhân viên, nhưng không có tên tuổi thật. Tôi nghĩ trong đầu một kế hoạch để đối phó với Cộng Sản khi bị hỏi cung.”
Nguyễn Thanh Thủy không chỉ là một người tù cải tạo. Bà c̣n là vợ một người tù cải tạo. Chồng bà, Cựu Đại Tá Vơ Bị Lê Thành Long, cũng vào tù sau ngày 30 tháng Tư 1975. Ba người con nhỏ của ông bà được gửi gắm lại cho ông bà Ngoại tại Mỹ Tho. Tuy nhiên, những cố gắng để kéo dài thời gian hỏi cung của bà cũng không giúp bà được ở gần gia đ́nh măi. Đến 15 tháng Sáu, 1975 th́ bà bị tập trung vào tù cải tạo. Theo lời bà, th́ “Tôi ở chung trại với tù cải tạo nam, học tập chính trị ở hội trường, học quốc ca của Cộng Sản và những bài hát đấu tranh chống Mỹ Ngụy, làm những bài thu hoạch, phê và tự phê, kiểm điểm, nộp cho họ. Tất cả mọi người phục vụ cho chế độ Việt Nam Cộng Ḥa đều có tội nhiều hoặc ít. Đó là cách luận tội của Cộng Sản. Tôi vào trại tù cải tạo Long Thành, với một túi xách đeo vai, một chiếc chiếu nhỏ cho một người nằm. Thiếu đủ mọi thứ. Tôi phải xuống hố rác cạnh dăy nhà chúng tôi ở, để t́m chai, lọ, mấy tấm tôn để đựng nước, đựng cơm, thức ăn… Nước chỉ đủ uống, không đủ tắm. Trời tháng sáu mưa dầm dề. Chờ trời mưa, tôi gội đầu tắm giặt nhờ những ḍng nước mưa chảy theo mái nhà.”
Trong suốt thời gian bị giam một ḿnh, bà đă canh cánh sợ bị bọn vơ trang muốn làm hỗn nên không bao giờ dám chợp mắt, đă nơm nớp khiếp sợ mỗi đêm khi cai ngục lẻng kẻng xâu ch́a khóa đâu đó giữa rợn rùng thăm thẳm tối. “V́ đêm trước có ai bị đưa đi, th́ sáng hôm sau coi như mất tích,” bà nói. Hơn nữa, phương tiện vệ sinh căn bản nhất cũng không có. Bà hồi tưởng, “Nói đến nơi tiểu tiện bằng những cầu dă chiến ngoài trời, mưa dầm là nó lầy lội, và những con ṿi trắng lềnh bềnh mà nữ th́ làm sao dám ngồi để tiểu tiện, nên tôi đành nín, nhịn khát, đợi tối mới ra cái nhà tắm che bằng bốn vách lá, đi xong cho vào hố rác. Nhớ tới cảnh này, tôi luôn rùng ḿnh, sao tôi chịu nổi dơ bẩn như thế.”
C̣n tiếp...
Bookmarks