Làng tị nạn Việt Nam tại biên giới Việt-Trung(Huỳnh Tâm)
Thứ ba, 27 Tháng 12 2011 15:56
“..Đôi lúc tôi nhận được tiếng thở dài của La Minh và nói: ‘Khi chưa có chiến tranh ai cũng biết Tổ quốc ḿnh ở đâu, c̣n hôm nay chúng tôi không biết ḿnh là ai’. Vinh nói theo:‘Giấc mơ lớn nhất của tôi, chỉ cần có được danh tính thân phận ḿnh là ai’...”
Sau tám năm (19/2/1979 ─ 21/8/1987 ). Chiến tranh Việt Nam‒Trung Quốc khởi sự từ đó cho đến thời điểm này vẫn c̣n tiếp diễn trên những cao điểm, tiếng súng qua lại giữa Việt Nam và Trung Quốc không hề hứa hẹn thời gian đ́nh chiến, bởi nhà nước Trung Quốc lấy quyết định dùng giải pháp súng đạn làm tiêu chuẩn cho ân oán nợ chiến tranh.
Trung Quốc ở thời nào cũng thế, mỗi khi có chiến tranh thường đem dân làm mộc-nhân và dùng lính làm biển người, do đó đă có những làng tị nạn Việt Nam mọc lên tại biên giới phiá Nam thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Tuy chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc chưa yên, thế mà chúng tôi mạo hiểm, lần đầu tiên đến địa điểm đă ước hẹn trước, sáng hôm ấy ngoài trời lành lạnh sương mù, đứng tại đầu lănh thổ Việt Nam, năm xưa thuộc tỉnh Lạng Sơn của tổ quốc thân yêu. Cũng ở địa điểm quanh đây vào ngày 21/2/1979 xuưt nữa chúng tôi bỏ mạng, vùi thây dưới ḷng sông Kỳ Cùng, bởi súng đạn của Trung Quốc càn quét sâu 40km vào tận lănh thổ Việt Nam. Gây ra biết bao cảnh điêu tàn, thảm khốc, không thể nào điểm danh từng xác chết của người dân bản làng và dân quân sống tại biên giới Việt Nam, họ chết nhiều kiểu cách khác nhau, nào là trong trong rừng, khe núi, dưới suối, trôi bồng bềnh trên ḍng song Các, song B́nh Nhi và đầu nguồn sông Hồng. Truyền thông Quốc tế gọi đây là cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 3.

Thượng lưu sông Kỳ Cùng, người dân Trung Quốc gọi Sông Các
( Ảnh: GS. La Minh )
Mảnh đất này, trước đây là của Việt Nam, ngày này thuộc về lănh thổ của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Chúng tôi đứng trên núi cao cách làng tị nạn Việt Nam 7 cây số, nh́n về xứ sở, quê hương ẩn hiện qua xưng mù, kư ức hồi tưởng nơi chào đời mà lần đầu tiên tự miệng biết gọi hai tiếng Mẹ‒Cha. Tuy đứng trên đất tổ mà lại thuộc xứ người làm sao không khỏi bồi hồi, xót xa, ḷng xao xuyến và tự hỏi: Quê hương ḿnh đang suy nghĩ ǵ về phần đất đă bị mất vào tay Trung Quốc hay có ư định nào trở ḿnh không. Một câu hỏi trong ư thức hay vô t́nh sỉ nhục tôi, cũng có thể sỉ nhục lớn đối với chế độ đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đương thời!

Trên núi cao đèo Rắn thuộc tỉnh Vân Nam, nh́n về
hướng đất nước tôi bên kia sông B́nh Nhi (Ảnh: GS. La Minh)
Những năm trước 1987, nhà nước Trung Quốc quảng cáo đă chiếm lĩnh được của Việt Nam những phần đất biên giới có tầm cở chiến lược quốc gia, bộ máy truyền thông của Trung Quốc dồn dập lưu diễn tại Miến Điện, Kazakhstan, Nga, Mông Cổ và biên giới Trung- Bắc Hàn, họ đồng một luận giải theo ngôn ngữ đại Hán. "Chư hầu Việt Nam hiến dâng biên giới, Trung Quốc không từ chối". Nay họ phối trí lại cơ sở hạ tần cấp Huyện, Xă tại biên giới hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây. Trung Quốc làm một công tŕnh hợp pháp về lănh thổ biên giới, lúc ấy Việt Nam âm thầm không lên tiếng, mặc nhiên công nhận dâng hiến đất liền biên giới cho Trung Quốc, cho nên Quốc tế không có lư do nào để chỉ trích Trung Quốc hay can thiệp cho Việt Nam. Theo báo chí và truyền thông Quốc tế cũng loan tải "1979 Việt Nam hiến dâng phần đất liền biên giới, hàng ngàn dặm cho Trung Quốc".
Trung Quốc c̣n tuyên bố ngoại giao: "Đất liền biến giới phía Nam rộng thênh thang, có được hàng ngàn dặm nhờ Việt Nam mở rộng phong cách mới".
Trước năm 1987 Trung Quốc có những hành vi bất lương, như báo chí Trung Quốc tung ra nhiều loạt các báo cáo chủ quyền về đường biên giới, lập danh sách đặt lại tên cho những dăy núi lớn, nhỏ không bỏ sót một quả đồi nào, lập danh sách địa danh mới và c̣n ghi rơ khí hậu biên giới. Họ tổ chức nhiều đơn vị biên pḥng đi tuyên truyền cái nhân đạo của nhà nước Trung Quốc, đôi khi c̣n đột nhập vào thành phố ở biên giới Việt Nam và những ngôi làng nhỏ khuyến dụ dân làng làm t́nh báo cho họ.
Chúng tôi đang ở "Ḍng nhà làng" tại nhà Họa sĩ La Minh, đến ngày thứ tư La Minh rủ chúng tôi đi thăm Lê Văn Vinh một người bạn cùng thời thơ ấu, Lê Văn Vinh hiện ở tại ngôi làng tị nạn Việt Nam có tên "Âu nhà làng", lộ tŕnh đường bộ khoảng 6km.
Lê Minh tay chỉ, miệng nói:
─ Âu nhà làng, lờ mờ bên núi xa xa, đó là làng của Vinh.
Thế mà chúng tôi phải trèo núi vượt suối gian nan mất hai giờ liền mới đến nơi, La Minh cho biết đi đường chim bay. Nếu đi đường Quan Công th́ mất 4 giờ. "Âu nhà làng" nằm trong thung lũng của khe núi Âu, tôi đă đi qua hai làng tị nạn Việt Nam quan sát thấy có một đặt điểm chung, họ nói nhiều ngôn ngữ khác nhau như Việt, Hoa và các sắc tộc biên giới, tuy nhiên tiếng Việt là ngôn ngữ giao thiệp chính, tại làng này có 1476 người tị nạn, c̣n "Ḍng nhà làng" dân số đến 2574 người. Chúng tôi gặp nhau trong hoàng cảnh xúc động, có ai biết trước sự hy hữu của con nguời. Trái đất này không phụ t́nh người, nếu có quyết định th́ nơi nào cũng đến và đi đều được cả.
Sau buổi cơm trưa, chúng tôi hàn huyên trăm ngàn chuyện cũ từ Sài G̣n đến Chợ Lớn, điểm qua bạn bè, thân thuộc, gia đ́nh và kẻ sống ở đâu, người chết nơi nào, có những lúc Minh và Vinh xúc động khóc như trẻ thơ, v́ Minh, Vinh đồng nạn nhân của năm 1975, như mọi người dân miền Nam Việt Nam, nhưng không ai hiểu thấu Minh, Vinh trải qua trắng sạch sự nghiệp và biến đổi cuộc đời bần cùng vào ngày 19/2/1979 giữa chiến tranh Việt-Hoa tại biên giới.
Trước đây Lê Văn Vinh nguyên là Cử nhân Hóa, phụ giảng Đại học Khoa Học Sài G̣n, nay là bác nông phu tại "Âu nhà làng" cư ngụ hay tạm trú trong núi rừng heo quạnh, không c̣n dịp trở ḿnh, tuy nhiên chỉ c̣n hy vọng, ngày mai con cháu sẽ hơn cha mẹ.
C̣n về La Minh, trước 1975 nguyên Giáo Sư trường Mỹ Thuật Gia Định và Bác Ái, chủ của một nhà in rất lớn tại đường Hồng Bàng Chợ Lớn, tranh của La Minh thường triển lăm tại Chợ Lớn, Hồng Kông và Đài Loan. Gia phả của La Minh đă 7 đời không c̣n gốc ngọn người Hoa, tổ tiên của anh từ chối cháo với chao và một chữ Triều châu cũng không ngưởi ra mùi Hoa. La Minh có mặt tại "Ḍng nhà làng" do tính nghệ sĩgiang hồ xúi giục, sau 1975 anh lấy quyết định bỏ quê hương đi t́m đất hội họaĐài Loan, mượn lục địa Trung Quốc làm thuyền chở cả gia đ́nh 7 miệng ăn và mang theo hết tài sản trên ba-lô.
Cuối cùng cả gia đ́nh của Minh gặp phải nhiều bi kích, vợ, hai đứa con trai và một đứa con gái yêu quí nhất của Minh đều nằm xuống tại nghĩa trang. Minh xếp đặt cho con trai Cả bỏ làng đi Hồng Kông hơn một năm, c̣n lại hai đứa con trai nhỏ. Tôi cùng Minh ra nghĩa trang thắp hương cho chị Minh và các cháu. ( Chương sau chúng tôi nói đến Nghĩa trang và Bỏ làng )
Lúc này tinh thần Vinh đă b́nh tỉnh lại và cho biết:
─ Hai năm trước giới quân sự cho xây dựng một đường chiến lược tuần tra biên giới thông qua các làng bằng những đoạn giao thông hào rất kiên cố. Cũng như các quan chức tỉnh Vân Nam, thường đưa phóng viên vào làng này để săn tin, họ nói: "Cuối năm 1970 đă có người Việt Nam trốn thoát vào Trung Quốc xin tị nạn, có vài người đă sống ở đây hơn 20 năm". Lê Văn Vinh nói tiếp: "Những người sống ở đây hơn 20 năm, thuộc vào diện "hỗ trợ" chính là viên chức T́nh báo chiến lược của quân đội Trung Quốc".
Họ trà trộn vào đời sống ở đây, sinh hoạt như người tị nạn Việt-Hoa, Hoa-Việt và người dân tộc biên giới, vốn đă phức tạp về ngôn ngữ và sinh hoạt theo tập tục văn hóa từng bộ tộc để phân biệt và t́m hiểu về họ, ḿnh phải có ít nhiều lư thú đi sâu vào sinh hoạt trong môi trường làng tị nạn Việt Nam, có thế mới khám phá được những ư đồ của nhà chức trách Trung Hoa.
Trước 1975 ở biên giới Việt-Hoa chưa h́nh thành làng tị nạn Việt Nam, thế nhưng cũng đă có vài trăm người tị nạn mang nhăn hiệu "hỗ trợ". Họ xuất hiện bởi những tên gián điệp người Hoa, trước khia họ hoạt động tại miềm Bắc Việt Nam, sau khi nhà nước Hà Nội phát hiện họ bị trục xuất khỏi Việt Nam, kéo theo một hệ lụy từ chối công nhận người Hoa vào quốc tịch Việt Nam.
Người Hoa ở miền Bắc về lại Trung Quốc hóa thành nghịch cảnh, dù có công hay không đối với nước Trung Quốc hiện đại vẫn bị từ chối quyền công dân, nhà nước Trung Quốc không công nhận những đứa con của Tổ quốc trở về, người Trung Quốc chỉ thừa nhận họ là người tị nam Việt Nam dù đă sống ở Trung Quốc 20 năm.
Một nghịch lư khác sau 1975, có hơn một triệu người Hoa sinh ra và lớn lên tại miền Nam Việt Nam, đă 9 kiếp tổ tiên là người Việt vẫn gọi ôm mớ là người Hoa. Thời chiến tranh Trung Quốc dùng địch vận gọi mỹ danh "Hoa Kiều Việt Nam" khi Hoa Kiều Việt Nam trở về Trung Quốc lập tức được công nhận "Người tị nhận Việt Nam" hai chữ "Hoa Kiều" hết giá trị, hiện nay trong làng nói tiếng Việt hơn 75%.
Còn tiếp....
Từ : chinhnghiaviet
Bookmarks