Sự thật về cái gọi là "chiến công Ấp Chiến Lược" của chế độ độc tài, gia đ́nh trị, kỳ thị Phật Giáo Ngô Đ́nh Diệm.
Thêm một sự thật để thấy ra giọng điệu bù lu bù loa của tàn dư đảng Cần Lao Công Giáo phi dân tộc rêu rao là "nếu c̣n chính quyền Diệm" th́ không "mất nước".
[SIZE=5][COLOR="#FF0000"]QUỐC SÁCH ẤP CHIẾN LƯỢC[/COLOR][/SIZE]
Có một số người cho rằng Chương-Tŕnh Ấp Chiến-Lược đă giúp chính-quyền Ngô Đ́nh Diệm b́nh-định xứ-sở, triệt-tiêu cộng-sản, đem lại đời sống an-b́nh cho dân-nhân Miền Nam dưới chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Ḥa; và “cha đẻ” của Chương-Tŕnh được gọi là Quốc-Sách ấy chính là Cố-Vấn Ngô Đ́nh Nhu (sic).
Theo họ th́ sau cuộc Cách-Mạng 1-11-1963, v́ Trung-Tướng Dương Văn Minh đă hủy bỏ quốc-sách Ấp Chiến-Lược nên cộng-sản mới có thể dễ-dàng lấn chiếm và đánh thắng Miền Nam (sic).
Sự Thật là “Ấp Chiến-Lược” bị hủy-bỏ bởi Sắc Luật số 103/SL/CT, do Thủ-Tướng Nguyễn Khánh kư ngày 9 tháng 3-1964 (xem Tham-Chiếu 1).
Để các thế-hệ sau này hiểu biết chính-xác về thực-chất của Chương-Tŕnh Ấp Chiến-Lược, ta hăy t́m đọc các tài-liệu lịch-sử ‒ mà các cá-nhân nói trên đă không biết đến, hoặc đă cố-ư không đề-cập đến mà c̣n tự-ư thêm-thắt bịa-đặt ra ‒ hầu bắt mọi người phải nghe những lời ca-tụng vu-vơ dựa trên những điều không hề xảy ra.
*Nhưng, trước tiên, tôi xin nói về những ǵ mà chính bản-thân tôi biết được về Ấp Chiến-Lược.
*Từ năm 1954, nhất là sau khi Đức Quốc-Trưởng Bảo Đại bổ-nhiệm và Ông Ngô Đ́nh Diệm đă nhậm chức Thủ-Tướng Quốc-Gia Việt-Nam, việc làm của tôi quá nhiều và quá “quan-trọng”.
Vừa là biên-tập-viên (góp bài cho “Tuần-Báo Tiếng Kèn”; viết “Mục Thời-Luận”, trả lời “Thư Thính-Giả”, soạn bài “Quân-Nhân T́m Hiểu”, giới-thiệu tân+cổ Nhạc Việt-Nam và “Nhạc Ngoại-Quốc” hằng ngày cho Đài Quân-Đội; tóm-lược t́nh-h́nh cho nhật-báo “Bản Tin”; viết bài phóng-thanh cho “Đại-Đội Vơ-Trang Tuyên-Truyền”; viết các bài b́nh-luận đặc-biệt để Trưởng Pḥng Năm Quân-Khu sử-dụng tại các nơi khác; kể cả thảo diễn-văn cho các Tư-Lệnh Quân-Khu), tuyên-truyền-viên lưu-động, phóng-viên chiến-tranh (war correspondent), thuyết-tŕnh-viên tại các buổi “Học Tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục”, v.v..., tôi c̣n là giám-đốc Chương-Tŕnh Phát-Thanh hằng ngày “Tiếng Nói Quân-Đội” ‒ cho khắp Đệ-Nhị Quân-Khu (từ Tỉnh Quảng-Trị vào Tỉnh B́nh-Thuận, tức là cả Quân-Khu I lẫn Quân-Khu II sau này).
Công-việc quá nhiều đến nỗi tôi được chỉ-định mà không thể đến giảng môn “Tác-Động Tinh-Thần” (tiền-thân của Tâm-Lư-Chiến tức Chiến-Tranh Tâm-Lư, và về sau là Chiến-Tranh Chính-Trị) tại “Trường Sĩ-Quan Đập Đá” (nơi xuất-thân của thiếu-úy ‒ về sau là trung-tướng ‒ Trần Văn Trung), cũng như tại lớp đào-tạo “T́nh-Báo Ấp Chiến-Lược” ở gần vùng Phủ Cam.
Việc làm quá “quan-trọng” ‒ góp phần tích-cực và hữu-hiệu củng-cố địa-vị của (Thủ-Tướng rồi Tổng-Thống) Ngô Đ́nh Diệm ‒ đến nỗi Bộ Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu đă đề-nghị Bộ Tổng-Tham-Mưu ban thưởng cho tôi “Quân-Công Bội-Tinh” ‒ là một huân-chương chỉ dành cho các sĩ-quan tràn-đầy chiến-công và dạn-dày thâm-niên, trong lúc tôi chỉ là một quân-nhân trừ-bị ‒ “văn-nghệ-sĩ và kư-giả” mà được “động-viên chuyên-môn” (như các nhạc-sĩ Lâm Tuyền, Văn Giảng, Lê Trọng Nguyễn, v.v... trong Ban Tân-Nhạc thuộc Đài của tôi). Tuy không được cấp mề-đay, nhưng việc đề-nghị như thế chứng-tỏ Miền Trung đă đánh giá tôi “cao” đến ngần nào.
Nhắc lại chuyện cũ dài-ḍng là để nhấn mạnh một điểm: trong khoảng 1954-1956 (2 năm nhiệm-kỳ quân-dịch pháp-định cộng với 6 tháng lưu-dụng v́ nhu-cầu quân-vụ) của tôi, đă có ít nhất là một Lớp Đào-Tạo cán-bộ “T́nh-Báo Ấp Chiến-Lược” được mở ra tại Huế.
Tóm lại, “Ấp Chiến-Lược” đă có nằm trong chương-tŕnh hoạt-động của chính-quyền Ngô Đ́nh Diệm, do Cố-Vấn Hoa-Kỳ, đặc-biệt là Đại-Tá CIA Edward G. Lansdale (xem Tham-Chiếu 2) đề ra, chậm nhất là từ năm 1956 rồi.
* Thế nhưng...Măi đến ngày 3 tháng 2 năm 1962 (8 năm sau ngày chấp-chánh), sau khi chế-độ đă suy-thoái rồi, Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm (và Cố-Vấn Ngô Đ́nh Nhu) mới áp-dụng Chương-Tŕnh “Ấp Chiến-Lược” (xem Tham-chiếu 3)
* Năm 1962, tôi được đưa đi thụ-huấn một khóa t́nh-báo đặc-biệt (là khóa cao-cấp đầu tiên mà CIA huấn-luyện cho một số viên-chức Cảnh-Sát Công-An, Phó Đốc-Sự Hành-Chánh, và sĩ-quan Quân-Lực VNCH được chọn-lọc kỹ). Sau đó, tôi được sung vào một tổ-chức, về phía dân-sự, gọi là “Đoàn Công-Tác Đặc-Biệt” (SOC= Special Operations Corps) ‒ không phải là “Đoàn Công-Tác Đặc-Biệt Miền Trung” của Cố-Vấn Ngô Đ́nh Cẩn do Ông Dương Văn Hiếu cầm đầu ‒ . Đoàn SOC này, trực-thuộc Phủ Đặc-Ủy T́nh-Báo Trung-Ương về mặt chuyên-môn, và được sự yểm-trợ của Nha Tổng-Giám-Đốc Cảnh-Sát & Công-An về mặt hành-chánh, hoạt-động bí-mật, dưới thời Đại-Tá Nguyễn Văn Y, là người kiêm-nhiệm cả hai chức-vụ đứng đầu Phủ ĐUTBTƯ và Tổng Nha CSCA. Đoàn gồm có nhiều Đội. Riêng Đội của tôi (tôi là Phụ-Tá Điều-Hành kiêm Phiên-Dịch-Viên) th́ hoạt-động tại Cao-Nguyên Trung-Phần, có trụ-sở riêng, đóng tại Ban Mê Thuột, bên trong là “Đội Khảo-Cứu Địa-Lư”, bên ngoài là “Pḥng Cảnh-Sát Tư-Pháp” (sở-dĩ dùng ngụy-danh này là v́ trước đó tôi là Trưởng Pḥng Cảnh-Sát Tư-Pháp tại Nha Cảnh-Sát Công-An Cao-Nguyên Trung-Phần ‒ hồi đó tuy mặc dân-phục nhưng tôi đă đến tận các phạm-trường chấp-lư các vụ phạm-pháp, nên đă có người biết mặt, biết tên).
V́ là “khảo-cứu địa-lư” nên tôi phải nắm vững t́nh-h́nh nông và sơn-thôn, trong đó có các Địa-Điểm Dinh Điền, các Khu Trù Mật, và nhất là các Ấp Chiến Lược vừa mới bắt đầu thành-h́nh trong năm 1962. Đồng-thời, v́ là công-tác t́nh-báo, lần đầu tôi có cố-vấn CIA. Do đó, với óc t́m-ṭi, tôi đă có dịp đọc được bản gốc tài-liệu tiếng Anh về “Ấp Chiến Lược”, đặc-biệt là nguồn gốc của nó, cùng với những kinh-nghiệm, ưu+khuyết-điểm của Ấp Chiến-Lược rút được từ thực-tế thi-hành trước đó tại các nước Mă Lai và Phi Luật Tân.
[B][COLOR="#FF0000"]I-Tóm-tắt về Ấp Chiến-Lược[/COLOR][/B]
Người được công-nhận như một “Tổng Giám Đốc Điều Hành” của Chương-Tŕnh Di-Dân Lập Ấp (nguyên-lai của Ấp Chiến-Lược) trên b́nh-diện quốc-tế là Sir Robert Thompson, một sĩ-quan không-quân và là một chuyên-gia chống-khuynh-đảo của nước Anh. Ông được cử làm Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng Thường-Trực cho nước Mă-Lai, thực-hiện hữu-hiệu sáng-kiến làng-xóm tái-định-cư (Village Resettlement) của Tướng Gerald Templer của Anh trong việc đánh dẹp Bộ-Đội Giải-Phóng Dân-Tộc Mă-Lai (MNLA= Malayan National Liberation Army) của đảng cộng-sản Mau Mau tại nước này, từ cuối thập-niên 1940 đến thập-niên 1950.
Nguồn: [url]http://en.wikipedia.org/wiki/Robert_Grainger_Ker_Thompson[/url] và [url]http://en.wikipedia.org/wiki/Malayan_Emergency[/url]
Về Việt-Nam, có nhiều tài-liệu liên-quan, nhưng tôi tạm lấy một tài-liệu được xem là công-tŕnh sưu-tập và biên-khảo đứng-đắn mới nhất từ Văn-Khố Việt-Nam tại Viện Đại-Học Texas Tech (Vietnam Archive, Texas Tech University), để tóm-lược dưới đây.
Nguồn:
[url]http://www.vietnam.ttu.edu/events/2002_Symposium/2002Papers_files/peoples.htm[/url]
The Use of the British Village Resettlement Model in Malaya and Vietnam, 2002 (Việc sử-dụng kiểu-mẫu của Anh về Tái Định-Cư Xă Ấp tại nước Mă Lai và nước Việt Nam):
Tại Việt-Nam, từ 1952 đến 1954, tướng Pháp Francois Linares đă cho tái-định-cư khoảng 3 triệu người Việt ở Miền Bắc, đặc-biệt vùng đồng-bằng sông Hồng-Hà, vào các “làng được bảo-vệ” mà họ gọi là “nông-thị” (agroville) tức là thị-trấn ở nông-thôn, tức là “Khu Trù-Mật”. Đó là chính-sách “b́nh-định bằng sự phồn-thịnh”. Pháp cung-cấp dồi-dào các tiện-nghi xă-hội và kinh-tế, bảo-vệ và khuyến-khích lập các lực-lượng bán-quân-sự để tự-vệ, dựa vào nguồn tài-trợ sớm nhất của Hoa Kỳ cho Pháp sau khi xảy ra chiến-tranh Triều-Tiên. Phóng-viên chiến-tranh tên-tuổi Bernard Fall, sau khi đến thăm 2 khu kiểu-mẫu tại Khôi Lộc thuộc Tỉnh Quảng-Yên và Đông Quan tại Tỉnh Hà-Đông (Miền Bắc) đă tuyên-bố rằng “các Ấp Chiến-Lược của Pháp này rập đúng khuôn-mẫu của Anh bên Mă-Lai.”
[B][COLOR="#FF0000"]II-Các chương-tŕnh di-dân lập-nghiệp[/COLOR][/B]
Để cho dễ hiểu, tôi xin tóm-tắt về 3 chương-tŕnh (đúng ra là 3 giai-đoạn, cấp-bậc cấu-trúc, danh-xưng) khác nhau, từ dưới lên trên (mà mục-đích chung là dựng hàng rào chiến-lược chận đường tiến chiếm của đối-phương):
1/ “Ấp Chiến-Lược” (giai-đoạn 1): gom dân tại chỗ, rào ấp tại chỗ.
Tại các vùng nông-thôn hay sơn-cước, dân-chúng cư-ngụ rải-rác và đi làm việc tùy-tiện, nên cộng-sản có thể liên-lạc, di-chuyển từ nhà này qua nhà khác, một cách dễ-dàng, để tuyên-truyền, ḍ-hỏi tin-tức, thu+mua vật-liệu, xây-dựng cơ-sở, lợi-dụng nhân-lực (ép-buộc đi phá cầu, phá đường, chôn ḿn, kể cả tham-gia tấn-công đồn bót), rủ-rê hoặc bắt-cóc đi theo họ (nếu chống-đối th́ họ giết chết...). Chương-tŕnh “Ấp Chiến Lược” quy-tụ dân-chúng vào một khu nhà tập-thể, có rào và hào bao quanh, có cổng vào/ra chung, ở đó trai-tráng được cấp vũ-khí thay phiên canh gác, sáng mới mở cổng ra ngoài làm việc, chiều tối về nhà đóng chặt cổng lại. Cộng-sản không thể vào Ấp tiếp-xúc hay huy-động dân. Các Ấp như thế sẽ có tác-dụng như một dăy đồn tiền-phương cho các quận-lỵ xung quanh thị-xă. Nếu bị tấn-công th́ dân trong Ấp tự ḿnh chống-lại, báo-động cho Quận để lực-lượng Quận sẽ đến tiếp-cứu. Mục-đích là để giữ dân cũng như tài-nguyên khỏi lọt vào tay đối-phương, có tính chiến-thuật (về mặt quân-sự: cầm-cự tạm-thời để chờ viện-binh).
V́ “Ấp Chiến-Lược” có một diện-tích nhỏ hơn diện-tích của một Ấp thông-thường, và phải được lập tại một vị-trí thuận-lợi về mặt giao-thông, nên tuy gom dân “tại chỗ” (tức là trong làng, trong quận sở-tại mà thôi) nhưng đa-số dân cũng phải rời bỏ nhà-cửa vườn-tược của ḿnh.
2/ “Địa Điểm Dinh Điền” (giai-đoạn 2): di dân, khai hoang, lập ấp.
Tài-liệu chính-thức nói rơ là “điều-ḥa dân-cư: di-chuyển (đến những tỉnh khác, miền khác) những nông-dân thiếu đất canh-tác ở miền Trung-Châu Trung-Phần, những công-nhân không chuyên-nghiệp khiếm-dụng ở các đô-thị, một số ít người di-cư tị-nạn v́ lư do ǵ chưa được an cư lạc nghiệp như đại-đa-số người di-cư khác, cựu chánh-trị-phạm, cựu binh-sĩ đang cần trở lại đời sống b́nh thường nhưng không có phương tiện, đồng-bào vượt tuyến, Hoa-kiều tị-nạn và Việt-kiều hồi-hương chưa có cơ sở làm ăn, một số đồng-bào Thượng, để giúp cho họ sống đời định cư, định canh, hưởng những điều kiện cải tiến dân sinh.”
“Địa-Điểm Dinh Điền” cũng là một khu tập-trung, nhưng so với “Ấp Chiến-Lược “ th́ “Địa-Điểm Dinh Điền” rộng lớn hơn, dân-số đông hơn, nhà cửa thoáng hơn, sinh-hoạt có tổ-chức hơn, vừa làm nghề cũ đă có từ quê-hương cũ, vừa học và làm nghề mới do chính-quyền huấn-luyện và trợ-cấp tại quê-hương mới. Nhân-lực nhiều hơn, phương-tiện dồi-dào và tân-tiến hơn (có cả nông-cơ), lực-lượng tự-vệ mạnh hơn, có thể cầm-cự với địch lâu hơn.
Nói chung là di-chuyển dân đi xa hơn, tái-định-cư, khai-phá đất mới, sản-xuất quy-mô hơn, có tính chiến-lược (tự-pḥng), chú-trọng cả về kinh-tế, văn-hóa, xă-hội, tiến tới tự-túc để sẽ sáp-nhập vào nền hành-chánh địa-phương.
Người dân, thuộc nhiều gốc-gác khác nhau, bỏ hẳn nhà cửa, họ-hàng, mồ-mả tổ-tiên, đến lập một cuộc sống mới tại vùng đất mới khai-hoang.
3/ “Khu Trù Mật” (giai-đoạn 3): định-cư, lập-nghiệp (Dinh Điền lư-tưởng).
Khi nào có Địa-Điểm Dinh Điền nào “có những khu gia-cư khang-trang (nhà cửa có sân, vườn cây ăn trái, chuồng nuôi gia-súc), có khu công-sở (trụ-sở Hội-Đồng Quản-Trị, nhà hộ-sinh, nhà phát thuốc, giếng nước, trường học, pḥng thông-tin, chùa, nhà thờ, chợ, bến xe đ̣, v.v...), có đường sá, cầu cống, kinh lạch để tiện việc giao-thông” tức là không những tự-túc mà c̣n tiến lên phồn-thịnh, th́ sẽ được nâng lên cấp “Khu Trù Mật”.
Dân-cư tại “Khu Trù Mật” nổi bật là chung gốc-gác (địa-phương, chính-kiến, tín-ngưỡng).
[B][COLOR="#FF0000"]III-Đệ-Nhất Cộng-Ḥa Thực-Hiện Thế Nào[/COLOR][/B]
Trong những năm đầu của nền Đệ-Nhất Cộng-Ḥa, liền sau Hiệp-Định Geneva 1954, đa-số cán-bộ/bộ-đội cộng-sản từ Miền Nam phải tập-kết ra Miền Bắc, số ít cơ+cán CS gài lại th́ phải nín thở đợi lệnh ‒ đồng-thời cộng-sản ở Miền Bắc th́ từ rừng-núi mới về tiếp-thu thành-thị th́ phải chăm lo tái-thiết, cải-tạo, ổn-định t́nh-h́nh sau cuộc chiến-tranh, rèn cán chỉnh quân, nên chưa đủ sức quấy rầy Miền Nam ‒ trong lúc đó th́ ở Miền Nam dân Việt ghét Pháp và cũng không yêu Bảo Đại, chính-quyền của Thủ-Tướng rồi Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm nhờ có Hoa Kỳ ép Pháp rút quân, và giúp dẹp yên các phe đối-lập, nhận được viện-trợ của Mỹ dồi-dào và có hoàn-cảnh ngưng bắn thuận-lợi nên đă tóm gọn được các phần-tử cộng-sản lộ-diện, củng-cố chế-độ và thực-hiện các chương-tŕnh phục-vụ đồng-bào. Người dân Miền Nam nhờ đó đă hưởng được nhiều năm khá b́nh-yên, đầy hy-vọng vào tương-lai.
Đệ-Nhất Cộng-Ḥa lợi-dụng thời-cơ, đốt giai-đoạn, xếp bỏ kế-hoạch “Ấp Chiến-Lược” (giai-đoạn 1), bỏ lơ các ấp nông-thôn & sơn-thôn, tiến lên xây-dựng các “ Địa-Điểm Dinh Điền” (giai-đoạn 2) kể từ năm 1957.
Mục-đích nêu ra (xem phần II đoạn 2 trên kia) thật là tốt-đẹp, chính-đáng, cụ-thể, cấp-thời.
*Hồ-sơ tài-liệu tóm-tắt mà tương-đối đầy-đủ nhất về thành-tích hoạt-động của Đệ-Nhất Cộng-Ḥa là cuốn “Thành-Tích SÁU NĂM HOẠT-ĐỘNG CỦA CHÁNH-PHỦ VIỆT NAM CỘNG H̉A” Kỷ-Niệm Đệ-Lục Chu-Niên Chấp-Chánh của Tổng-Thống Ngô-đ́nh-Diệm – Ngày Quốc-Khánh 26-10-1960 (cuốn này đă được Ông Hồ Đắc Huân, cựu SVSQ khóa 2 Hiện dịch Nha Trang, hiện ở Little Saigon, Hoa-Kỳ, in lại trong năm 2007).
Ngẫu-nhiên, năm 1960 cũng là năm “bản lề” giữa thời-kỳ “thành-công” 6 năm đầu và thời-kỳ “thất-bại” 3 năm sau của triều-đại Ngô-Đ́nh, như tôi đă ghi trong bài “Năm 1960 đối với Đệ-Nhất Cộng-Ḥa”.
*Nói chung, từ 1954 đến 1960:
*Cấp 1 (“Ấp Chiến Lược”): Chưa thực-hiện (cho đến 1962);
*Cấp 2 (“Địa-Điểm Dinh Điền”): Đă thực-hiện từ 1957;
*Cấp 3 (“Khu Trù Mật”): Mới bắt đầu thực-hiện từ 1960.
[B][COLOR="#FF0000"]IV-Nguyên-Nhân Thất-Bại[/COLOR][/B]
Tôi bị chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Ḥa cất chức, quản-thúc, rồi đày đi khỏi Huế lên Cao-Nguyên Trung-Phần (vùng “nước độc và nguy-hiểm”), đến Ban Mê Thuột vào tháng 8 năm 1960. Hồi đó các Nha cấp Phần có quyền “tự-trị” địa-phương (chưa bị khép vào khuôn-khổ như khi hợp-nhất Cảnh-Sát với Công-An thành Cảnh-Sát Quốc-Gia theo Sắc Lệnh số 146/NV ngày 27-6-1962, hai năm về sau). Giám-Đốc Nha Công-An & Cảnh-Sát Phần này là Thiếu-Tá Nguyễn Văn Luận (về sau thăng cấp đại-tá, làm Tiểu-Khu-Trưởng kiêm Tỉnh-Trưởng Tỉnh B́nh-Định), có thành-lập một bộ-phận đặc-biệt (hoạt-động bên ngoài) riêng của Nha này, do Ông Nguyễn Hữu Liêm (về sau là Trưởng-Ty CSQG Tỉnh Darlac) chỉ-huy, gồm có Pḥng An-Ninh Chính-Trị, Pḥng Cảnh-Sát Tư-Pháp, và Đội Biệt-Kích. Biệt-Kích th́ đi lùng diệt cộng-sản khắp Cao-Nguyên. An-Ninh Chính-Trị do Ông Nguyễn Giang phụ-trách, Cảnh-Sát Tư-Pháp do tôi, Lê Xuân Nhuận đảm-đương (nhưng hai chúng tôi làm việc chung với nhau, cả chính-sự lẫn h́nh-sự).
Thoạt tiên, tôi được phái về điều-tra các vụ bê-bối tại Địa-Điểm Dinh-Điền Kiến-Phúc (?) phía nam quận-lỵ Kiến-Đức của Tỉnh Quảng-Đức (hồi đó Quận-Trưởng là Đại-Úy Nguyễn Văn Thanh).
Từ một vụ nhỏ là dân-chúng bị buộc phải nạp phí-tổn chụp h́nh, mặc dù việc thầu nhiếp-ảnh (cũng như mọi khoản chi-tiêu khác của Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền) đă được Hoa-Kỳ đài-thọ cho “Ngân-Sách Quốc-Gia”. Rồi nhân dịp có “cấp cao” (từ Phần xuống thấu Tỉnh, Quận) đến làm sáng-tỏ nỗi oan của người dân nghèo, nhiều đơn khiếu-nại về những vụ khác, lớn hơn, đă được đồng-bào nạp thêm... .
Cho đến một hôm tôi đi từ Ban Mê Thuột vào Dinh-Điền ấy th́ bị Việt-Cộng phục-kích (tôi bị lật xe, găy một xương vai và hai xương sườn), các vụ tiếp theo được giao cho các bạn khác điều-tra... .
*Nói chung là Đệ-Nhất Cộng-Ḥa (thật ra là chính Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm và Cố-Vấn Ngô Đ́nh Nhu) tại Miền Nam đă thực-thi Chương-Tŕnh Di-Dân Lập-Ấp này theo cách mà các nhân-vật tên-tuổi một thời đă ghi như sau (xem thêm ở phần Tham-Chiếu 4) để hiểu rơ hơn.
Họ Ngô quan-niệm người dân chỉ đóng một ít tiền thuế mà được thụ-hưởng biết bao lợi-ích, nên khi cần dựng các khu tập-trung, Địa-Điểm Dinh Điền, th́ phải góp phần cùng với chính-quyền, phải dùng công-sức của ḿnh mà tham-gia phát-triển cộng-đồng. Người dân th́ bị lao-động không lương theo lối dân-công, phải cung-ứng thêm vật-liệu, phải đóng góp tiền, và chịu đựng các tệ-nạn; đi ra làm việc trễ hơn và phải trở về sớm hơn, cộng với đường đi xa hơn, nên việc sản-xuất cũng như tinh-thần giảm-sút rơ-ràng.
[B][COLOR="#FF0000"]V-Chương-tŕnh “Dinh Điền”[/COLOR][/B]
Một “Phủ Tổng-Ủy Dinh Điền” được thành-lập vào ngày 23-1-1957, được tổ-chức như một Bộ, nhưng lại được đặc-biệt đặt dưới quyền điều-khiển trực-tiếp của Tổng-Thống.
Nội-các của Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm gồm có 14 Bộ, nhưng lại có đến 16 tổ-chức (Phủ Tổng-Ủy, Phủ Đặc-Ủy, Nha Tổng-Giám-Đốc, Phái-Đoàn, Cuộc, Học-Viện, Nha) trực-thuộc Tổng-Thống; trong số các cơ-sở trực-thuộc này th́ “Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền” được xếp đứng đầu, tức là ưu-tiên trên hết mọi lănh-vực hoạt-động khác của chính-quyền.
Tại Vùng liên-hệ (như Cao Nguyên Trung-Phần) có một Quản-Đốc Dinh-Điền kiểm-tra đôn-đốc việc thi-hành các chỉ-thị của Trung-Ương và đặc-biệt phụ-trách các vấn-đề an-ninh trong Vùng; tại Tỉnh có một Trưởng-Khu Dinh-Điền; và tại mỗi Địa-Điểm Dinh-Điền có một Địa-Điểm-Trưởng (dân-chúng gọi là “Ông Địa”). Về việc thi-hành, ngân-sách do quỹ quốc-gia đài-thọ, các thủ-tục chi-tiêu và thanh-toán theo đúng nguyên-tắc của Ngân-Sách Quốc-Gia.
“Trong năm 1957-58 (năm đầu), phong-trào di-dân dinh-điền ồ ạt quá, rồn rập quá và gần như không có chuẩn-bị đầy-đủ, kết-quả có bề rộng mà chưa có bề sâu, th́ năm 1959-60 phải nói là công cuộc Dinh-Điền đă được thực-hiện theo một kế-hoạch đă được nghiên-cứu rất kỹ-càng. Những địa-điểm thành-lập trong các năm sau đều đă tiến-triển như mong muốn nhờ có thời-giờ chuẩn-bị, có hoàn-cảnh chọn-lựa kỹ địa-điểm cũng như di-dân và các cơ-cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có trớn lại thêm có kinh-nghiệm sống trong công-tác, đă hoạt-động một cách hữu-hiệu...” và “Đă đưa họ đến những vùng đồng ruộng bao-la không có người khai-thác hết ở miền Nam, và những vùng đất cao thuộc miền Đông Nam-Phần và Vùng Cao-Nguyên Trung-Phần đất rộng người thưa” và, ngoài việc canh-nông thông-thường và các nghề tiểu-công-nghiệp, c̣n “sản-xuất gai và ki-náp, phát-động phong-trào trồng cây cao-su, thí-nghiệm trồng nhiều cây kỹ-nghệ khác như bông vải, thuốc lá, ...”.
Tính đến ngày 26-10-1960, về số Địa-Điểm Dinh-Điền đă được thành-lập: năm 1957 là 16, năm 1958 là 32, năm 1959 là 36, năm 1960 là 42, tổng-cộng là 126 Địa-Điểm. Tại Cao-Nguyên Trung-Phần, nhiều nhất là ở Tỉnh Pleiku, rồi đến Tỉnh Darlac, xuống đến Tỉnh Quảng-Đức. Tại Đất Cao Miền Đông Nam-Phần và Nam Trung-Phần, nhiều nhất là ở Tỉnh B́nh-Tuy, rồi đến Tỉnh Phước-Long, xuống đến các Tỉnh B́nh-Long, Phước-Thành, Long-Khánh, Tây-Ninh, Ninh-Thuận, B́nh-Dương, Phước-Tuy và Phú-Yên... .
Nói về số lượng Dinh Điền th́ ở Tỉnh Pleiku là nhiều nhất, có đến 25 Địa-Điểm, kế đến là ở Tỉnh Darlac với 22 Địa-Điểm; riêng ở Tỉnh Quảng-Đức có 7 Địa-Điểm.
Sau ngày Cách-Mạng 1-11-1963, tôi làm Trưởng-Ty Cảnh-Sát Quốc-Gia Tỉnh Quảng-Đức.
V́ Hội-Đồng Quân-Nhân Cách-Mạng, do Trung-Tướng Dương Văn Minh cầm đầu, chưa ổn-định xong t́nh-h́nh nội-bộ các tướng và nội-các mới ngay ở Sài-G̣n, đâu thể nghĩ ǵ đến các... Địa-Điểm Dinh-Điền xa-xôi, nên đa-số dân tại nhiều Dinh-Điền tự-động kéo nhau bỏ về quê xưa.
Chính tôi đích-thân đứng ra tại các ngă ba, nhất là Daksong ở Quận Đức-Lập (nơi từ các hướng Quận Kiến-Đức trên Quốc-Lộ 14 và Quận Khiêm-Đức trên Liên-Tỉnh-Lộ 9 thuộc Tỉnh Quảng-Đức nhập vào để lên Ban Mê Thuột, hầu dùng Quốc-Lộ 21 mà về Quốc-Lộ 1 ở Nha-Trang ḥng ra Miền Trung) để chận họ lại. Về phương-diện Cảnh-Sát Hành-Chánh, di-chuyển đi xa mà không xin phép, tức là phạm tội ǵ đó nên phải trốn-tránh sau khi có biến-cố lớn xảy ra, nên tôi cho bắt một số cầm đầu để hỏi lư-do.
Qua cuộc điều-tra & phối-kiểm, tôi biết đại-khái như sau:
Họ là dân gốc các Tỉnh Quảng-Trị, Thừa-Thiên, Quảng-Nam, Quảng-Ngăi, B́nh-Định (phía Bắc Trung-Phần). Trong công-cuộc phát-triển cộng-đồng, cải-tiến dân-sinh, (mục-đích tốt-đẹp) chính-quyền Ngô Đ́nh Diệm đă thực-hiện nhiều chương-tŕnh không phải song-song với nhau mà lại cḥng-chéo lên nhau. Thí-dụ:
Phủ Đặc-Ủy Công-Dân-Vụ coi về Phát-Triển Cộng-Đồng, Tổ-Chức Làng Mạc, bằng cách tổ-chức Hội-Đồng Xă, các đoàn-thể nhân-dân (các Hội; các Ban; các Câu-Lạc-Bộ; các Nghiệp-Đoàn, các Hợp-Tác-Xă, các Hiệp-Hội Nông-Dân; các Đoàn Nông-Dân Cách-Mạng Quốc-Gia, Đoàn Thanh-Niên CMQG, Đoàn Phụ-Nữ CMQG, Đoàn Thiếu-Nhi CMQG, Thanh-Niên Cộng-Ḥa, Thanh-Nữ Cộng-Ḥa, v.v...), huấn-chính (huấn-luyện chính-trị) nhân-dân, phối-hợp với các lực-lượng quân-sự và an-ninh để trấn-an nhân-tâm (riêng tại các tỉnh Miền Trung và Cao-Nguyên th́ tham-gia hành-quân tuần-sát, chiến-dịch “Tố Cộng”, Dân-vận, Thượng-vận, v.v...), vận-động nhân-dân đóng-góp, tính đến 1960, là 23,840,320 nhân-công và 144,210,686.00 tiền mặt; huấn-luyện Trưởng Ấp, Liên-Gia-Trưởng, công-dân giáo-dục, chủ-nghĩa Nhân-Vị; tổ-chức meeting, biểu-t́nh, liên-hoan văn-nghệ; bắn chết, bắt sống, và vận-động cán-bộ VC về đầu-thú; kêu gọi thanh-niên trốn quân-dịch theo VC quay trở về; phát-giác VC nằm vùng và các phần-tử tiếp tay; vận-động nhân-dân khám-phá cơ-sở kinh-tài, tịch-thu vũ-khí của VC; hướng-dẫn nhân-dân lập khu trù-mật, làng kiểu-mẫu; tham-gia quy thôn, quy ấp; sửa chữa nhà cửa, sửa đập, đắp đê, đào mương, làm vườn ương cây, phát thuốc, sửa pḥng đọc sách, dựng cḥi phát-thanh, kiểm-tra dân-số, tổ-chức Liên-Gia Tương-Trợ; hướng-dẫn nhân-dân trồng-tỉa, chăn-nuôi, làm tiểu-công-nghệ; huấn-luyện cán-bộ Thú-Y, làm chuồng và hướng-dẫn chăn nuôi; tổ-chức các lớp văn-hóa bổ-túc; v.v... nghĩa là dẫm đạp lên các Bộ Nội-Vụ, Quốc-Pḥng, Thông-Tin, Quốc-Gia Giáo-Dục, Y-Tế, Lao-Động, Canh-Nông, Công-Chánh và Giao-Thông, Điền-Thổ và Cải-Cách Điền-Địa, v.v... .
Phủ Đặc-Ủy Công-Dân-Vụ cũng dẫm đạp lên cả Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền, Phủ Tổng-Ủy Hợp-Tác-Xă và Nông-Tín, Nha Tổng-Giám-Đốc Xă-Hội, Nha Tổng-Giám-Đốc Thanh-Niên, v.v... là những cơ-quan cũng cùng trực-thuộc Tổng-Thống... .
Đó hẳn là một trong các lư-do chính-yếu tại sao cả loạt Tổng-Trưởng & Bộ-Trưởng do chính Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm bổ-nhiệm đă xin từ-chức.
Cũng cần ghi thêm là chính Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm đă đích-thân ngồi trên phi-cơ trực-thăng đi quan-sát địa-thế và dùng ba-tông chỉ vào các nơi mà ông muốn thành-lập Dinh-Điền tức Khu Trù-Mật về sau. Nhưng những người thi-hành, thay v́ làm dấu tọa-độ chính-xác trên các bản đồ, đă chấm một số khu rừng có nhiều gỗ quư (cẩm-lai, trắc, gụ, v.v...) để cho nhà thầu khai-thác lấy tiền bỏ vào túi riêng.
Tổng-Giám-Mục Ngô Đ́nh Thục cũng khai-thác rừng theo kiểu đó. Trong bài “Chín Năm Bên Cạnh Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm - Mạn đàm với cựu Đổng Lư Quách Ṭng Đức”, Ông Lâm Lễ Trinh đă viết: “Về tin đồn Đức cha Thục làm kinh tài (khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail, v.v...), ông Đức cho rằng TT Diệm tin TGM Thục không làm điều ǵ sai quấy, ngài phải kiếm tiền nuôi sống trường Đại học Đà Lạt do Ngài thành lập.”
*Trở lại với vụ đồng-bào Dinh-Điền bỏ về làng cũ sau ngày Cách-Mạng 1-11-1963:
Chính-quyền Đệ-Nhất Cộng-Ḥa nói chung đă dùng chiêu-bài “Đả-Thực, Bài-Phong, Diệt-Cộng” để đẩy đa-số dân quê vào bước đường cùng: các chức-sắc làng th́ là tàn-tích Bảo Đại phong-kiến, mấy cậu học-sinh có bằng “xép-xi, đép-xi” th́ là tay-chân của Pháp thực-dân, bà-con họ-hàng gần/xa của các cán-binh Việt-Minh th́ là cơ-sở cộng-sản nằm vùng; những kẻ lừng-khừng không chịu sốt-sắng tham-gia “Phong-Trào Cách-Mạng Quốc-Gia” th́ là phản-động; và cả thành-phần lè-phè th́ bị liệt vào bốn giới “tứ đổ tường” (cờ-bạc, rượu-chè, hút-xách, dâm-ô); đều bị “đấu-tố” liên-miên, qua các buổi meeting, các cuộc biểu-t́nh, các lớp “học-tập chủ-nghĩa Nhân-Vị, đạo-đức cách-mạng của Ngô Tổng-Thống”, các đợt “Tố Cộng”; để rồi cuối-cùng, nếu không bị giết, th́ “được” đưa đi Dinh-Điền (tức là trục-xuất ra khỏi địa-phương, một cách lưu-đày).
Ngẫu-nhiên hầu hết họ là tín-đồ Phật-Giáo. Và nhân cơ-hội gọi là “Phật-Giáo lật đổ Nhà Ngô”, dân các Dinh-Điền Darlac đă ùa theo nhau trở về quê cũ, nên các đương-nhân từ các Địa-Điểm ở Quảng-Đức này cũng kéo nhau đi.
Tôi có báo-cáo lên trên; nhưng Nha CSQG Cao-Nguyên Trung-Phần, nhất là Tổng-Nha CSQG, chắc không nhận được lệnh ǵ rơ-ràng trong lúc t́nh-h́nh toàn-quốc, đặc-biệt Thủ-Đô Sài-G̣n, c̣n đang căng-thẳng sau cuộc chính-biến, nên không trả lời. Cấp trên của tôi tại chỗ là tỉnh-trưởng th́ cũng chẳng thể làm gỉ khác hơn.
Thế là Chương-Tŕnh Dinh-Điền tự-động kết-thúc, không cần lệnh-lạc của ai.
[B][COLOR="#FF0000"]VI-Các “Khu Trù-Mật”[/COLOR][/B]
Có một số người lẫn-lộn thứ-tự ra đời giữa “Dinh Điền” và “Khu Trù-Mật”. Tôi viết rằng “Khu Trù Mật” có sau “Dinh Điền” v́ các lư-do sau đây: Trong cuốn Thành-Tích Sáu Năm (1954-1960) là tài-liệu chính-thức của Đệ-Nhất Cộng-Ḥa, nghĩa là tính đến ngày 7-7-1960, không có báo-cáo là đă thành-lập một “Khu Trù Mật” nào cả, mà chỉ nói là đang “tổ-chức các địa-điểm (Dinh-Điền thành-lập từ năm 1957) thành một đơn-vị có thể trở nên về sau một “Khu Trù-Mật” có những khu gia-cư khang trang...” và măi đến 3 tháng sau, vào ngày 3-10-1960 th́ Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm mới đọc thông-điệp tại Quốc-Hội rằng “Trong số 19 khu trù-mật dự-trù cho năm 1960, 17 khu đă khánh-thành...”
Như trong báo-cáo của Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền đă có nói rơ (trong cuốn “Thành-Tích Sáu Năm Hoạt-Động của Chánh-Phủ Việt Nam Cộng Ḥa”, 1960): “Có thể nói trong năm 1957-58, phong-trào di-dân dinh-điền ồ ạt quá, rồn rập quá và gần như không có chuẩn-bị đầy đủ, kết quả có bề rộng mà chưa có bề sâu, th́ năm 1959-60 phải nói là công cuộc Dinh-điền đă được thực hiện theo một kế hoạch đă được nghiên cứu rất kỹ càng. Những địa-điểm thành lập hơi vội vàng trong năm đầu đă được lần lần củng cố và cải tiến. Những địa-điểm thành lập trong các năm sau đều đă tiến triển như mong muốn nhờ có thời giờ chuẩn bị, có hoàn cảnh chọn lựa kỹ địa-điểm cũng như di-dân và các cơ cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có trớn lại có thêm kinh nghiệm sống trong công-tác, đă hoạt động một cách hữu hiệu.” (trang 22)
Đó là nói về Dinh-Điền, nhưng theo những ǵ tôi đă t́m hiểu tại chỗ th́ đoạn báo-cáo trích trên có thể được “hiểu” và “viết” như sau:
“Trong năm 1957-58, phong-trào di-dân dinh-điền ồ ạt quá, rồn rập quá và gần như không có chuẩn-bị đầy đủ, v́: về địa-điểm th́ Trung-Ương chưa chọn đủ nhiều; về quê-quán th́ lẫn-lộn cả dân Miền Nam lẫn dân Miền Bắc di-cư; về nghề-nghiệp th́ lẫn-lộn nhiều ngành khác nhau; về chính-trị th́ lẫn-lộn giới được chính-quyền khen với giới bị chính-quyền chê; về văn-hóa th́ lẫn-lộn các tín-ngưỡng khác nhau; v.v... Sau đó, đă được lần lần củng cố và cải tiến: đồng-bào tín-đồ Ky-Tô-Giáo được các linh-mục hướng-dẫn tách riêng; những ai được chính-quyền xem là đă “tốt” rồi cũng được chiếu-cố nhiều hơn; và các tay nghề ngành nào th́ được đưa vào cảnh-trí thích-hợp với ngành ấy hơn... nhờ có thời giờ chuẩn bị, có hoàn cảnh chọn lựa kỹ địa-điểm cũng như di-dân và các cơ cấu của Phủ Tổng-Ủy, sẵn có trớn lại có thêm kinh nghiệm sống trong công-tác, đă hoạt động một cách hữu hiệu.”
Cho nên chính-quyền “tổ-chức các địa-điểm (Dinh-Điền) thành một đơn-vị có thể trở nên về sau một Khu Trù-Mật có những khu gia-cư khang trang...” (trang 15).
Như thế chứng-tỏ là “Khu Trù-Mật” “cao cấp” hơn “Địa-Điểm Dinh-Điền” nhờ được chọn lựa kỹ địa-điểm cũng như di-dân. “Khu Trù-Mật” là “Dinh-Điền lư-tưởng” vậy.
Ngay việc đặt tên cũng đă nói lên điều đó: toàn Tỉnh chỉ có một Khu Dinh-Điền bao gồm nhiều Địa-Điểm Dinh-Điền, trong lúc mỗi một địa-điểm như thế trong Tỉnh mà được nâng lên loại-hạng trù-mật th́ được gọi là Khu Trù-Mật (mỗi Tỉnh có nhiều Khu Trù Mật).
Kết-quả: kể từ 1960, Chương-Tŕnh “Khu Trù-Mật” ra đời. Theo Thông-Điệp của Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Ḥa Ngô Đ́nh Diệm đọc tại Quốc-Hội ngày 3 tháng 10 năm 1960 th́ “Trong số 19 khu trù-mật dự-trù cho năm 1960, 17 khu đă khánh-thành...”
Riêng các “Khu Trù-Mật” của đồng-bào Ky-Tô-Giáo La-Mă, do các linh-mục cai-quản th́ tiến-triển nhanh và phát-đạt nhất, và c̣n tồn-tại lâu dài... .
[B][COLOR="#FF0000"]VII-Ấp Chiến-Lược[/COLOR][/B]
Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền đă được thành-lập từ ngày 23-1-1957, trong lúc “Ấp Chiến-Lược” th́ phải đợi đến năm 1962 (8 năm sau ngày TT Ngô Đ́nh Diệm chấp-chánh) mới được chính-thức ra đời (như đă nêu trên).
Phủ Tổng-Ủy Dinh-Điền th́ trực-thuộc Tổng-Thống, mà lại được nêu trước tiên, trên mọi cơ-quan chính-quyền (và các Khu Dinh Điền ở Tỉnh th́ được tự-trị). C̣n “Ấp Chiến-Lược” th́ chỉ là một bộ-phận phụ-thuộc của Bộ Nội-Vụ (và chỉ có một Pḥng tại Ṭa Hành-Chánh Tỉnh) mà thôi.
Cho nên “Ấp Chiến-Lược” không có mặt, nên không đóng góp một chút “công-trạng” ǵ vào các thành-tựu được kể, và chỉ có, vào những năm đầu (1954-1960) của nền Đệ-Nhất Cộng-Ḥa.
*V́ cả 3 chương-tŕnh đều có di-dân, và mỗi “Ấp (Chiến-Lược)” hay “Địa-Điểm (Dinh-Điền)” hay “Khu (Trù-Mật)” đều có hàng rào kẽm gai và hào hố bao quanh (mặc dù mức-độ, tầm-vóc, và chủ-đích khác nhau), cho nên từ năm 1962 trở đi dân-chúng gọi chung là “Ấp Chiến-Lược”.
Và sau 1975 th́ “Ấp Chiến-Lược” được một số người kể công (ma) trong việc “ngăn-chận cộng-sản xâm-lăng”.