Nhóm Dự Đoán Kinh Tế cũng là thành phần thứ ba
Trang blog chính của nhóm Dự Đoán Kinh Tế cũng tự nhận ḿnh là thành phần thứ ba , đề như vậy ngay trang chính của blog .
[IMG]http://i18.photobucket.com/albums/b149/bargainbazzar/dudoankinhte2.jpg[/IMG]
[URL="http://dudoankinhte.wordpress.com/category/thanh-ph%E1%BA%A7n-th%E1%BB%A9-3/"]http://dudoankinhte.wordpress.com/category/thanh-ph%E1%BA%A7n-th%E1%BB%A9-3/[/URL]
Như vậy ông Trần và toàn bộ nhóm của ông ta thuộc vào thành phần thứ ba , chủ trương HHHG với CS , đưa " CS tốt " lên thay " CS xấu " để bản thân được chia chác quyền lực .
Xin hỏi ở đây có ai giải thích được thế nào là " CS tốt " vs " CS xấu " ? Thế nào là " độc tài xấu " vs " độc tài tốt " ?
Xin hỏi vậy ông Trần và phe ông ta cùng HP7 đă , đang và sẽ phục vụ cho ai ? Chắc chắn là không phải cho người dân VN rồi , càng không phải để VN có được dân chủ thực sự .
Vơ Văn Kiệt ghi công thành phần thứ ba tiếp tay CS
[CENTER][B][COLOR="#0000FF"]Vài nhận xét về “thành phần thứ ba” và “ḥa hợp, ḥa giải dân tộc”[/COLOR][/B][/CENTER]
Ngô Vĩnh Long
Hàng năm, đến khoảng tháng 4, báo chí ở Việt Nam lại có một vài bài về “ḥa hợp, ḥa giải dân tộc” trong đó có đề cập đến vai tṛ của “thành phần thứ ba.” Năm nay tờ báo Đại Đoàn Kết, cơ quan trung ương của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, trong bài với tựa đề “Kỷ niệm 36 năm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30-4-1975/2011): Đóng góp của ‘thành phần thứ ba’ cho ngày chiến thắng” có viết như sau:[1]
Nhắc lại sức mạnh của tinh thần đại đoàn kết, cũng như con đường tất yếu để đi đến ḥa hợp, ḥa giải dân tộc, ông Kiệt cho rằng: “Theo tôi, đă đến lúc ta phải nh́n nhận công lao, sự đóng góp to lớn của các tầng lớp người Việt yêu nước từng sống trong ḷng chế độ cũ, hiện ở trong nước hay ở bên ngoài. Bản thân tôi cùng với anh em được giao tiếp quản Sài G̣n năm 1975, một Sài G̣n nguyên vẹn sau một cuộc chiến tranh như vậy, tôi nghĩ không thể không nói đến vai tṛ của các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ - Thiệu, có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ .… Sự xuất hiện trở lại trên chính trường của ông Dương Văn Minh chính là kết quả hoạt động tích cực của lực lượng thứ ba, lực lượng những người đấu tranh với Mỹ - Thiệu ngay trong ḷng chế độ Sài G̣n bấy giờ.”
Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị B́nh thẳng thắn thừa nhận: “[B]Nhiều người ngại nói đến lực lượng thứ ba, nhưng theo tôi, lực lượng này đă có những đóng góp nhất định vào thắng lợi của nhân dân ta[/B]”. Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch là một liên minh rộng lớn đại diện cho nhiều tổ chức, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, các cá nhân yêu nước thuộc nhiều thành phần trong xă hội trong và ngoài nước, sĩ quan và viên chức kể cả cấp cao của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Với chính sách ngoại giao “ḥa b́nh và trung lập”, Mặt trận đă tranh thủ được đông đảo các lực lượng yêu chuộng ḥa b́nh và công lý trên toàn thế giới, bao gồm cả phong trào phản chiến ở Mỹ, kể cả những người khác xa về chính kiến, tạo nên một mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn chưa từng có, đoàn kết với cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Chính phủ các nước xă hội chủ nghĩa và nhiều nước, châu Á, Phi, Mỹ La-tinh đă chính thức công nhận Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam về mặt chính phủ. Cách mạng miền Nam ngày càng thắng lớn, Mặt trận càng có điều kiện mở rộng, tập hợp thêm lực lượng. Sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, ngày 20-4-1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và ḥa b́nh Việt Nam ra đời do Luật sư Trịnh Đ́nh Thảo, nhà trí thức yêu nước nổi tiếng ở miền Nam làm Chủ tịch. Thắng lợi mang tính chiến lược của cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 buộc đế quốc Mỹ và chính quyền Sài G̣n phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Paris nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam, trong đó Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một bên đại diện cho cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta ở miền Nam. Với sự lớn mạnh về mọi mặt của cách mạng miền Nam, ngày 06-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam được thành lập, kịp thời phục vụ cuộc đấu tranh về ngoại giao trên bàn đàm phán bốn bên, đưa đến việc ký kết Hiệp định Paris ngày 27-01-1973. Ký Hiệp định Paris, Chính phủ Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lănh thổ của nước Việt Nam, quyền tự quyết của nhân dân ta ở miền Nam, rút quân về nước, công nhận t́nh h́nh thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng chính trị. Theo bà Nguyễn Thị B́nh, trong thời gian đàm phán ký kết Hiệp định Paris 1973, nhiều cá nhân và nhóm chính trị rất đa dạng được h́nh thành, có người và nhóm do Mặt trận vận động tổ chức, có người và nhóm không có liên hệ ǵ với Mặt trận, nhưng hoạt động có xu hướng theo mục tiêu đấu tranh của Mặt trận, đó chính là lực lượng thứ ba. Bà Ngô Bá Thành, Luật sư Trần Ngọc Liểng, một số người trong nhóm tướng Dương Văn Minh... là một trong những lực lượng đó.
Tại sao tít bài báo đề cập đến “thành phần thứ ba” trong ngoặc kép trong khi cố Thủ tướng Vơ Văn Kiệt và nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị B́nh lại nói đến lực lượng thứ ba không có nháy nháy? Tại sao tít lại nói đóng góp “cho ngày chiến thắng” mà không cho ḥa hợp, ḥa giải dân tộc? Câu bà B́nh nói lực lượng thứ ba được h́nh thành “trong thời gian đàm phán kư kết Hiệp định Paris 1973” có nghĩa là bắt đầu từ năm 1968 hay từ hồi nào? Và tại sao bà B́nh lại buộc phải nói như sau: “Nhiều người ngại nói đến lực lượng thứ ba, nhưng theo tôi, lực lượng này đă có những đóng góp nhất định vào thắng lợi của nhân dân ta”?
Trong bài này tôi xin có vài nhận xét sơ khởi về những câu hỏi ở trên và về một số “đóng góp nhất định” của một vài “cá nhân và nhóm chính trị rất đa dạng” mà bà B́nh nêu ở trên. Tôi sẽ đề cập đến việc tại sao trong những năm cuối thập kỷ 60 và đầu 70 của thế kỷ trước người ta chú trọng đến vai tṛ của lực lượng thứ ba trong việc “ḥa hợp, ḥa giải dân tộc.” Sau đó tôi sẽ đưa ra một vài dẫn chứng tại sao chính quyền Sài G̣n đă ra sức tấn công các cá nhân và các nhóm trong lực lượng thứ ba sau khi Hiệp Định Paris được kư kết cuối tháng Giêng năm 1973 và hậu quả là ǵ sau này đối với vấn đề đoàn kết dân tộc và việc xây dựng một xă hội dân chủ, hài ḥa.
( c̣n tiếp )