Chính quyền Pháp: Xâm lăng VN và truyền đạo.Sĩ phu VN :b́nh Tây ; sát tả .Cả 2 đều có chính trị + tôn giáo
[QUOTE=Cao Cầu;175056]
Phât giáo chưa bao giờ theo gót giày ngoại bang để thống trị đất nước. Lịch sử đă chứng minh quá rơ ràng ........................................................................................................................................................................ Phật, Lăo, Khổng là nền tảng của nền văn hoá của tộc Việt . [/QUOTE]
[QUOTE=Ngụy Tặc;178145]PG đă bao giờ hợp tác với bọn ngoại xâm v́ quyền lợi tôn giáo cho ḿnh mà tiếp tay đày đọa dân tộc chưa? [/QUOTE]
[SIZE=5]B́nh Tây sát tả[/SIZE]
[SIZE=2]Văn thư lưu trữ mở Wikisource[/SIZE]
[CENTER]B́nh Tây sát tả (năm 1874)
của Trần Tấn, Đặng Như Mai[/CENTER]
Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, đất Nghệ-an có hai người tú-tài là Trần Tấn 陳 鑌 và Đặng như Mai 鄧 如 梅 hội-tập cả các văn-thân trong hạt, rồi làm một bài hịch gọi là « B́nh tây sát tả », đại-lược nói rằng : « Triều-đ́nh dẫu ḥa với Tây mặc ḷng, sĩ-phu nước Nam vẫn không chịu, [B][COLOR="#0000CD"][SIZE=5]vậy trước nhất xin giết hết giáo-dân,[/SIZE] rồi sau đánh đuổi người Tây cho hết, [U]để giữ lại cái văn-hóa của ta đă hơn 1.000 năm nay[/U], v. v. » Bọn Văn-thân cả thảy độ non ba ngh́n người,[COLOR="#B22222"][U] kéo nhau đi đốt phá những làng có đạo.[/U][/COLOR][/COLOR][/B]
([url]http://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%ACnh_T%C3%A2y_s%C3%A1t_t%E1%BA%A3[/url])
[I][COLOR="#2F4F4F"]
[COLOR="#0000CD"]để giữ lại cái văn-hóa của ta đă hơn 1.000 năm nay[/COLOR][/COLOR][/I] Văn hóa VN hơn 1,000 năm có phải là văn hóa "Tam giáo đồng quy " ảnh hưởng từ Trung Hoa là Phật -Khổng -Lăo không ?
[I][COLOR="#2F4F4F"]
[COLOR="#0000CD"]vậy trước nhất xin giết hết giáo-dân....kéo nhau đi đốt phá những làng có đạo.[/COLOR][/COLOR][/I]
Những ai vu cáo Công Giáo VN dính máu đồng bào cho ư kiến về câu này coi, có phải sĩ Phu VN thời ấy mang quan điểm ảnh hưởng Phật-Khổng-Lăo đi giết chính dân VN không ?
[I][SIZE=5]LỊCH SỬ RẤT CÔNG BẰNG .BỌN GIAO ĐIỂM CÓ LƯ LUẬN MỘT CHIỀU KHÔNG THỂ NÀO BẺ CONG LẠI ĐƯỢC[/SIZE]
- Bọn Giao Điểm vu cáo quân xâm lược Pháp nâng đỡ Công Giáo VN khiến Phật Giáo VN bị thất thế. [B][COLOR="#0000CD"]Nhưng lịch sử đă chứng minh rất rơ ràng là trước khi quân Pháp có mặt tại VN. Phật Giáo đă tự suy đồi v́ lư do nội tại và cũng v́ dưới các Triều Lê Nguyễn trọng Nho khinh Phật[/COLOR][/B][B][COLOR="#B22222"]. Và Phật giáo VN đă tự chấn hưng, cải tổ sau đó trong thời gian Thực Dân Pháp cai trị với sự đồng ư, chấp thuận của Thực Dân Pháp[/COLOR][/B]
-Bọn Giao Điểm vu cáo Công giáo VN theo gót giày ngoại bang để thống trị dân tộc Việt
-Lịch sử chứng minh rơ ràng đạo Công Giáo đă có mặt tại VN thời Lê-Mạc. Trước khi Pháp xâm lăng VN rất lâu.
-Bọn Giao Điểm vu cáo Công Giáo hiện diện chính thức tại VN do sự xâm lược của Pháp
-Lịch sử đă chứng minh rơ ràng [B][COLOR="#B22222"][U]Công Giáo được phép truyền đạo hợp pháp tại VN[/U][/COLOR][/B] do sự thỏa thuận của Vua Gia Long và Pháp. Khi c̣n là chúa Nguyễn Ánh, để đánh bại quân Tây Sơn có binh lực hùng hậu .Nguyễn Ánh cầu cứu nước Pháp viện trợ vũ khí tối tân và [B][COLOR="#B22222"]chấp thuận điều kiện do chính quyền Pháp đặt ra là sau đánh bại Tây sơn; thống nhất đất nước sẽ cho đạo Công Giáo truyền đạo hợp pháp tại VN[/COLOR][/B] [B][COLOR="#0000CD"][SIZE=5]DO ĐÓ; KHÔNG CÓ LƯ DO G̀ ĐỂ VU CÁO GIÁO HỘI CÔNG GIÁO CÓ MẶT HỢP PHÁP TẠI VN LÀ DO SỰ XÂM LƯỢC CỦA PHÁP[/SIZE][/COLOR][/B]
- Triều đ́nh Việt Nam đă chấp thuận cho đạo Công Giáo truyền giảng tại VN, nhưng sau đó ra những sắc chỉ bách đạo.[B][COLOR="#0000CD"] DO ĐÓ, CHÍNH CÁC TRIỀU Đ̀NH VIỆT NAM ĐĂ THẤT HƯÁ VỚI NGƯỜI PHÁP -VÀ CŨNG THẤT HƯÁ VỚI CHÍNH GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VN - KHI T̀M CÁCH CẤM ĐẠO CÔNG GIÁO PHÁT TRIỀN TẠI VN[/COLOR][/B]
-Khi quân Pháp chính thức xâm lăng Việt Nam bằng cách tấn công vào Đà Nẵng vào năm 1858 ,những điều kiện mà Pháp đặt ra cho các Triều đ́nh VN thời bấy ǵờ luôn luôn đi kèm theo yếu tố là phải chấp thuận để cho Đạo Công Giáo truyền giảng là[B][COLOR="#0000CD"] PHÁP YÊU CẦU TRIỀU Đ̀NH HUẾ VN TÁI THỰC THI LỜI HỨA CỦA VUA GIA LONG, KHÔNG PHẢI DO ÁP ĐẶT[/COLOR][/B]
- Bọn Giao Điểm vu cáo Công Giáo VN "hợp tác với bọn ngoại xâm v́ quyền lợi tôn giáo cho ḿnh mà tiếp tay đày đọa dân tộc" nhưng thật ra, suốt chiều dài lịch sữ của Công Giáo VN. [B][COLOR="#0000CD"]Lịch sử đă chứng minh rơ ràng quan quân các triều đ́nh VN, các sĩ phu VN - ngoài yếu tố kháng Pháp v́ ḷng yêu nước - cũng v́ quyền lợi " Tam giáo đồng quy Phật-Khổng -Lăo " [COLOR="#0000CD"][COLOR="#800080"]( Thí dụ: Giữ tục lệ đa thê )[/COLOR][/COLOR] đă đày đọa chính dân VN theo đạo Công Giáo[/COLOR][/B]
- Bọn Giao Điểm vu cáo Công Giáo là tôn giáo nhưng có kèm luôn chính trị v́ truyền đạo song song với sự hiện diện quyền lực của quân Pháp.Trong khi đó, [B][COLOR="#0000CD"]lịch sử đă chứng minh rất rơ ràng là các cuộc kháng Pháp mang tính cách chính trị của Triều Đ́nh và sĩ phu yêu nước VN thời bấy ǵờ luôn luôn kèm theo yếu tố tôn giáo là dùng vũ lực để tàn sát chính nhân dân VN theo đạo Công Giáo[/COLOR][/B][/I]
Hài ngoại không nên có "Pháp nạn 1963" Nhưng nên có" Pháp nạn sau 1954 tại miền Bắc và sau 1975 tại Miền Nam "
[B][COLOR="#0000CD"]TỰA ĐỀ TRÊN ĐÂY LÀ MỤC ĐÍCH CUỐI CÙNG CỦA NDTV TÔI KHI CHẤP NHẬN TRANH LUẬN TRONG THREAD NÀY[/COLOR][/B]
([url]http://www.banthedao.org/SailamCSVN-Thichquangdo.html[/url])
[CENTER][B][SIZE=4] [COLOR="#FF0000"]Nhận định về những sai lầm tai hại[/COLOR]
[COLOR="#0000CD"]của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với Phật Giáo Việt Nam[/COLOR][/SIZE].
* [COLOR="#8B4513"]Ḥa Thượng Thích Quảng Độ[/COLOR][/B]
_____[/CENTER]
. . . . . Cộng sản là những người vô thần duy vật, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo, v́ Marx cho tôn giáo là thuốc phiện của loài người mà "bọn" tư bản dùng làm công cụ ru ngủ nhân dân lao động bằng cách khuyên họ cố gắng chịu những khổ cực ở đời này rồi sẽ được đền bù một thiên đường ở kiếp sau để dễ bề bóc lột, trong khi chủ nghĩa cộng sản chủ trương xây dựng thiên đường cộng sản ngay trên mặt đất này. Bởi vậy, cộng sản cho tôn giáo là một trở lực cần phải tiêu diệt
Tại Việt Nam có hai tôn giáo chính là Thiên chúa giáo và Phật giáo. Cộng sản gọi Thiên chúa giáo là Công giáo mà tiếng lóng của họ là "cứt gà", c̣n Phật giáo th́ tiếng lóng của họ là "phân gà".
Tại sao họ lại gọi là cứt gà và phân gà ? Tức họ cho Công giáo khó tiêu diệt hơn Phật giáo. Họ phân tích rất kỹ và v́ nhiều lư do, nhưng quá dài không thể kể hết ra ở đây, tôi chỉ tóm tắt sự phân tích của họ như sau : cộng sản đánh giá Công giáo tuy là số ít, nhưng là những con sư tử, khó tiêu diệt, cũng như cứt gà sáp (cứt gà ướt sền sệt) đă dính vào quần áo th́ chỉ c̣n cách cắt bỏ chỗ ấy đi thôi, chứ giặt khó sạch lắm ; c̣n Phật giáo tuy là số nhiều, nhưng chỉ là những con cừu, dễ tiêu diệt, cũng như phân gà khô, chỉ cần gạt một cái là sạch ! Nhưng dù khó hay dễ th́ cuối cùng cũng phải tiêu diệt. Nhưng cách thức tiêu diệt th́ tùy từng giai đoạn, tùy từng nơi chỗ.
Người cộng sản có đường lối gọi là "biện chứng", nghĩa là mục tiêu họ đă đặt ra là phải đạt cho bằng được; nhưng trên đường đi đến mục tiêu ấy mà êm xuôi th́ đi đến ngay, c̣n nếu gặp trở ngại th́ tạm thời dừng lại, nếu cần phải lùi th́ lùi, cần phải rẽ ngang cũng rẽ ngang, nhưng cuối cùng vẫn phải đạt mục tiêu, châm ngôn của họ là "lùi một bước tiến ba bước".
Đối với việc tiêu diệt các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, cũng vậy, nếu nơi nào xóa bỏ được ngay mà không gặp chống đối hoặc phản ứng bất lợi, th́ họ làm ngay, nếu thấy trở ngại th́ họ ngưng lại. Không những ngưng lại, mà nếu xét thấy tôn giáo trong giai đoạn ấy có lợi cho cộng sản th́ họ lại lợi dụng tôn giáo tối đa. Trong chủ trương tiêu diệt Phật giáo Việt Nam cũng không ngoài đường lối ấy.
Chẳng hạn, trong thời gian kháng chiến chống Pháp, cộng sản Việt Nam cần phải đoàn kết toàn dân, hơn nữa, cũng chưa rảnh tay để nghĩ đến việc tiêu diệt Phật giáo, cho nên họ lại lợi dụng Phật giáo bằng cách lập ra cái gọi là Phật Giáo Cứu Quốc nằm trong mặt trận Liên Việt. Lúc đó "sư cụ" Phạm Thế Long trụ tŕ chùa Cổ Lễ tại phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, đưa ra lời kêu gọi thanh niên tăng "Tạm xếp cà sa khoác chiến bào", nghĩa là hăy tạm thời cởi bỏ áo nhà tu để đi cầm súng giết Tây. Thế là hàng loạt sư trẻ bỏ chùa bỏ Phật để đi "yêu nước".
Đây là chính sách dùng một mũi tên bắt hai con chim một lúc : trước mắt có thêm người cầm súng, đồng thời, lại được cái lợi (mà cái lợi này mới là chủ yếu) là tiêu diệt mầm non của Phật giáo trong tương lai ! Mà lại dùng chính sư ra lời kêu gọi để tiêu diệt mầm non Phật giáo mới hợp thức, ai trách được cộng sản bắt sư đi lính ! Điều đó cũng dễ hiểu thôi : nếu muốn bắt c̣ th́ phải dùng con c̣ làm chim mồi, muốn bắt cu th́ phải dùng con cu làm chim mồi, chứ nếu muốn bắt c̣ mà dùng cu làm chim mồi th́ bắt sao được.
Lại nữa, xét thấy những ngôi chùa lịch sử danh tiếng, điển h́nh như chùa Thiên Trù (chùa Hương - chùa ngoài) ở huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Đông, chùa Quỳnh Lâm tại làng Cổ pháp xưa (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) do Thiền sư Định Không (729-808) sáng lập vào khoảng năm Trinh Nguyên đời Đường bên Tàu, cộng sản thấy sau này, khi đă thành công, khó mà tự ḿnh ra tay phá được v́ sẽ có ảnh hưởng rất lớn, chi bằng mượn tay quân Pháp cho tiện. Cộng sản bèn đưa quân lính đến đóng tại các chùa đó, treo cờ đỏ sao vàng lên, máy bay thám thính của Pháp đến, thấy có cờ Việt Minh liền báo cho oanh tạc cơ đến bỏ bom (dĩ nhiên là Việt Minh đă rút trước rồi), thế là chùa tan nát ! Trong trường hợp này cũng lại một mũi tên bắt hai con chim: một mặt kích động ḷng căm thù của nhân dân, lên án giặc Pháp phá chùa và kêu gọi toàn dân hết ḷng đánh Pháp; mặt khác, sau này, khi thành công rồi khỏi phải phá để tránh tiếng cộng sản phá chùa lịch sử danh tiếng !
Tôi cảm thấy xót xa vô hạn khi đến nh́n lại nền chùa Quỳnh Lâm nơi thờ pho tượng là một trong "Việt Nam tứ khí" do Thiền sư Không Lộ, Quốc sư đời Lư, kiến tạo. Tôi đến đây vào cuối năm 1991. Nghe người ta kể lại, sau khi Pháp dội bom phải mất hơn một tháng trời mới cháy hết ngôi chùa. Hiện c̣n lại những cái tảng đá chân cột rất lớn, chứng tỏ những cây cột gỗ lim ngày xưa phải đến một ṿng tay người ôm; một vài ngôi tháp đá không bị cháy. Sau ngày cải cách tố khổ, những gạch của chùa của tháp c̣n sót lại được dùng để xây nhà nuôi lợn của Hợp tác xă ngay trước cửa chùa cũ. Sau ngày "đổi mới", Hợp tác xă giải thể, nhà nuôi lợn đă được bán đấu giá. Tôi thấy một vài tấm bia đá đổ úp xuống đất, nhờ người lật lên xem th́ thấy khắc Pháp danh của mấy vị Tăng thống đời Trần. Ngày tôi đến đây, sau sáu năm đổi mới, dân chúng địa phương đă góp sức làm được ba gian nhà gạch sơ sài trên nền chùa cũ để thờ Phật.
Hiện có một vị sư trụ tŕ, vị sư duy nhất tại tỉnh Quảng Ninh, nhưng cũng là người Hà Nam Ninh lên, chứ ở địa phương không c̣n sư nữa. Tôi được biết hầu hết các tỉnh trên Việt Bắc không c̣n chùa c̣n sư nữa. Ngay tại tỉnh Thái B́nh chỗ tôi ở, cả tỉnh cũng chỉ c̣n tám vị sư tăng già tuổi, từ bảy mươi trở lên và mấy chục sư ni vừa già vừa trẻ. Sau khi về Vũ Đoài được vài tuần, tôi nghe bộ Văn Hóa của nhà nước cộng sản Việt Nam đă xếp hạng chùa Quỳnh Lâm vào hàng "di tích lịch sử" có cấp bằng và tổ chức rước hẳn hoi. C̣n ǵ nữa đâu mà di tích với lịch sử ! Đến ngay cái nền nhà nuôi lợn Hợp tác xă trước cửa chùa cũng chẳng c̣n !
Chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử bị đốt cháy, chùa Phật Tích ở Bắc Ninh xây dựng ở đời Lư cũng đă bị phá hủy. Chùa Thầy ở huyện Thạch Thất tỉnh Sơn Tây, nơi thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, cũng được xây dựng vào đời Lư, đang trong t́nh trạng xuống cấp nặng nề, ngôi nhà Tổ phải chống đỡ bằng nhiều cây tre, chưa biết sẽ sụp đổ lúc nào. Chùa Pháp Vũ (chùa Đậu) ở phủ Thường Tín tỉnh Hà Đông, nơi có nhục thân (xác khô) của hai vị Thiền sư đời Lê, một vị đă bị cưa trán ra để khám nghiệm ! Chùa chính đă bị phá, c̣n ngôi bái đường và nhà tổ trong t́nh trạng xuống cấp.
Chỉ có chùa Thiên Trù và chùa Quỳnh Lâm là mỗi chùa có một vị sư, c̣n các chùa kia không có sư. Những chùa được xếp hạng di tích lịch sử do ti Văn hóa địa phương quản lí. Du khách đến tham quan hoặc khách hành hương phải mua vé vào cửa và trả tiền bến đậu xe. Hôm đoàn chúng tôi đến lễ, đậu xe chưa đến nửa giờ mà phải trả năm ngh́n đồng. Diệt Phật, đồng thời, bán Phật !
Trên đây là mấy ngôi chùa điển h́nh mà tôi đă đến tận nơi thấy tận mắt và kể lại sơ qua thế thôi, chứ nếu đi sâu vào chi tiết th́ c̣n nhiều điều thương tâm lắm, việc ấy để cho các nhà viết sử Phật giáo sau này.
Đến năm 1954, cộng sản về tiếp thu Hà Nội, đă hoàn toàn làm chủ miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, bắt đầu thực hiện chủ nghĩa cộng sản, nhất là sau cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, cải cách tố khổ, th́ ở nông thôn, việc phá chùa đ́nh miếu mạo không c̣n phải e ngại ǵ nữa. Nhiều đ́nh chùa bị trưng dụng làm nhà kho chứa thóc lúa, nông cụ, hoặc phá đi lấy gạch, gỗ để làm nhà kho, sân kho, nhà nuôi lợn v.v... của Hợp tác xă ; cột đ́nh cột chùa bằng gỗ lim đưa ra bắc cầu qua các rạch nước ở ngoài đồng cho những người gánh phân gánh lúa đi qua ; các tấm gỗ câu đối sơn son thếp vàng th́ dùng đóng ghế dài cho học sinh ngồi học, úp mặt chữ xuống dưới.
Đó là ở nông thôn, c̣n ở thành thị th́ chùa được trưng dụng làm cơ sở sản xuất công nghệ, làm trụ sở Ủy ban, làm nơi hội họp, cũng có chỗ làm nhà chăn nuôi. Và để thế tục hóa, chùa nào có sư ở th́ dân chúng vào chiếm các nhà phụ cận của chùa để ở, chỉ trừ chùa và nhà Tổ là để cho sư, c̣n các nhà họ chiếm hết. Họ nấu nướng, ăn uống, phơi áo quần chăn mền, nh́n vào không c̣n ǵ là vẻ tôn nghiêm của ngôi chùa nữa.
Tôi c̣n nhớ năm 1975, Ḥa thượng Thích Đôn Hậu về chùa Ần Quang kể lại t́nh trạng chùa Quán Sứ tại Hà Nội, dân chúng vào ở đầy trong chùa, hệt như dăy chung cư, chứ không c̣n là chùa nữa. Rồi Ḥa thượng kể Ḥa thượng có nói với sư cụ Trí Độ như sau: "Cụ ở đây mà để cho ngôi chùa thế này à ?". Sau đó Hoà thượng Đôn Hậu kể tiếp, tại một cuộc họp ở Liên minh Dân chủ Dân tộc và Ḥa b́nh do ông Trịnh Đ́nh Thảo chủ tọa, trong bài phát biểu của ḿnh, sư cụ Trí Độ nói: "Từ ngày được ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường, tôi mới thấy rơ con đường ḿnh đi !".
Th́ ra hàng mấy chục năm xuất gia theo Phật, sư cụ vẫn đi trong đêm tối; nhưng đến ngày đó và măi cho đến lúc chết, tuy không mặc áo Phật, mà mặc áo cộng sản, nhưng sư cụ vẫn cứ ở chùa và ăn cơm Phật ! Khi nghe sư cụ Trí Độ nói thế, một bà Phật tử trước là hiệu trưởng trường Đồng Khánh (bà Nguyễn Đ́nh Chi) ở Huế, cũng ra "bưng" năm Mậu Thân (1968), tỏ vẻ khinh thị. Rồi đến bữa ăn, bà này đến chỗ Ḥa thượng Đôn Hậu xin một món ăn chay, v́ bà ăn mười ngày chay mỗi tháng, mà ngày hôm ấy là ngày 15 ; một cán bộ nói với bà : "Chị đă đi làm cách mạng mà ăn chay làm ǵ ? Sư cụ Trí Độ kia có kiêng ǵ đâu ?". Bà ta trả lời: "Trước đây tôi đă qui y Phật và tự nguyện sẽ ăn chay mười ngày, chứ Phật không bắt buộc. Đă tự nguyện như thế mà không giữ th́ tức tôi đă phản bội chính tôi, vậy là một Phật tử xấu. Và đă là một Phật tử xấu th́ làm sao trở thành người cách mạng tốt cho được". Người cán bộ kia phải xin lỗi.
Tóm lại, các chùa đều bị trưng dụng để làm cơ sở này cơ sở khác, c̣n không th́ cho người tại gia vào ở làm mất vẻ tôn nghiêm của chùa và thế tục hóa dần dần. Về các cơ sở vật chất th́ phá hoại bằng những cách như trên, c̣n đối với cơ cấu tổ chức của giáo hội th́ cộng sản dùng thủ đoạn quen thuộc là "gậy ông đập lưng ông", nghĩa là dùng tăng ni chia rẽ tăng ni để phá hoại nội bộ giáo hội.
Trước năm 1954, Ḥa thượng Thích Tố Liên là Trị sự trưởng lănh đạo Giáo hội Phật giáo miền Bắc nằm trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc, gồm sáu tập đoàn Tăng già và Cư sĩ Bắc Trung Nam.
Tổng hội Phật giáo Việt Nam là thành viên sáng lập của hội Phật giáo thế giới. Năm 1957, một số tăng ni hoặc bị hăm dọa, hoặc v́ sợ hăi, hoặc cũng có những người v́ động cơ danh lợi thúc đẩy, nên đă họp nhau tại chùa Quán Sứ để tố khổ Ḥa thượng Thích Tố Liên (ta c̣n nhớ trong thời cải cách tố khổ, con tố cha, vợ tố chồng, tṛ tố thầy, tín đồ tố sư, tố Linh mục, anh em họ hàng tố lẫn nhau. Bây giờ đến lượt tăng ni tố tăng ni ! "văn hóa" cộng sản là thế đó !), rồi đem chùa Quán Sứ hiến cho "Phật giáo cứu quốc", mời sư cụ Trí Độ về ở chùa Quán Sứ và thành lập hội Phật giáo mới là Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam do cụ Trí Độ làm Hội trưởng, thế là Giáo hội Phật giáo truyền thống tại miền Bắc tan ră. Hai mươi bốn năm sau (1957-1981) họ cũng làm hệt như vậy đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại miền Nam (sẽ nói sau).
Về mặt tinh thần th́ phá hoại bằng cách chùa nào cũng phải nuôi lợn nghĩa vụ, thậm chí các sư giết lợn gà là thường. Nuôi lợn là để phá bầu không khí thanh tịnh trang nghiêm của cảnh chùa, giết lợn giết gà là hủy hoại tinh thần từ bi và giới sát của đạo Phật để thế tục hóa đạo Phật, đó là cách tiêu diệt đạo Phật nhanh nhất.
Trước năm 1954, chùa Quán Sứ là trụ sở Trung ương của Giáo hội Phật giáo miền Bắc, trong đó có viện Phật học đào tạo tăng ni, trường trung học Khuông Việt dạy chương tŕnh thế học, nhà in Đuốc Tuệ in Nguyệt san Phương Tiện và kinh sách, có thư viện v.v..., nhưng sau khi cộng sản tiếp thu Hà Nội th́ Viện Phật học phải giải tán để tăng ni ở đâu về đó lo việc tăng gia sản xuất, trường Trung học Khuông Việt đóng cửa, thư viện khóa kín, Nguyệt san Phương Tiện đ́nh bản và nhà in Đuốc Tuệ bị chiếm dụng. Nghĩa là tất cả mọi hoạt động của Giáo hội hoàn toàn bị đ́nh đốn, hệt như trong miền Nam năm 1975.
Bây giờ Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam về đóng đô ở chùa Quán Sứ đă làm được những ǵ cho Phật giáo miền Bắc ? Phải trả lời ngay là chẳng làm được ǵ cả. Tại sao ? Bởi v́ chủ trương của cộng sản là tiêu diệt Phật giáo trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn, như vậy làm sao họ để cho Hội Phật giáo hoạt động được ? Hơn nữa, như lời Ḥa thượng Thích Đôn Hậu kể mà tôi vừa nhắc lại ở trên, cụ Trí Độ được ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường cụ mới thấy rơ đường đi, th́ dĩ nhiên bây giờ cụ phải đi con đường sáng của cụ để truyền bá chủ nghĩa Mác, chứ cụ đâu có làm ǵ cho Phật giáo nữa. C̣n cái Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam của cụ chẳng qua chỉ dùng để phục vụ đường lối chính trị của đảng cộng sản Việt Nam bằng cách thỉnh thoảng đi dự một vài hội nghị về ḥa b́nh do phe cộng sản quốc tế tổ chức họp tại Liên xô, Mông Cổ để lên án giặc Mỹ xâm lược, đồng thời, cũng để cho miền Nam và thế giới biết, dưới chế cộng sản miền Bắc, tôn giáo vẫn được tôn trọng, thế thôi, chứ thực chất th́ Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam của cụ Trí Độ chẳng làm ǵ cho Phật pháp, nếu không nói là ngồi làm bù nh́n để hợp thức hóa cho việc cộng sản tiêu diệt Phật giáo. Không phải tôi nói ngoa đâu, lịch sử c̣n đó.
Xuất phát từ âm mưu tiêu diệt Phật giáo ngắn hạn cũng như trong dài hạn, từ năm 1954 trở đi, cộng sản chỉ cho mỗi chùa một sư già ở làm chủ hộ, c̣n sư trẻ (nếu có, hiếm lắm ) phải về quê cũ sản xuất làm ăn. Sau khi sư già chết, không ai kế tiếp, chùa bỏ không, nếu ở thành thị th́ bị trưng dụng làm cơ sở sản xuất, c̣n ở nông thôn th́ ủi bằng đi để làm ruộng cấy lúa. Giả sử (hiếm lắm) có ai muốn đi tu th́ phải làm đơn và khai lí lịch nộp cho công an, với lí do nhà nước chọn công dân tốt cho đi tu để ích đạo lợi đời, nhưng có người chờ đến già mà vẫn chưa được phép !
V́ Hiến pháp nhà nước cộng sản có điều khoản "tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng" (một cách chơi chữ), vậy người có tín ngưỡng muốn đi tu, chẳng lẽ lại nói huỵch toẹt ra rằng anh hay chị không được phép đi tu à ? Thôi th́ nại lí do "chọn công dân tốt ích đạo lợi đời" để ngăn chặn là hợp hiến hợp pháp nhất ! Tôi nghe người ta kể lại thị xă Thái B́nh có mấy người xin đi tu, chờ đợi đă lâu mà chẳng được phép, bèn tổ chức "thụ giới chui" ở một chùa nọ bị công an đến tóm cổ hết ! Dưới chế độ cộng sản tất cả thượng vàng hạ cám đều do nhà nước quản lí, nếu tư nhân muốn làm ǵ riêng phải làm lén lút, họ gọi là "làm chui" như những người vượt biên gọi là đi chui, bán phở lén gọi bán chui, rồi đến đi tu cũng thụ giới chui !
Những người muốn xuất gia làm tăng ni th́ như thế. C̣n thanh thiếu niên nam nữ ngoài đời th́ đoàn thể nào vào đoàn thể ấy rồi, nếu em nào lai văng đến chùa th́ bị đoàn thể phê b́nh chế giễu, v́ thế chẳng em nào dám bén mảng đến chùa ; câu "Trẻ vui nhà già vui chùa" được ứng dụng một cách triệt để. Như thế là ngoài đời cũng vậy, chỉ c̣n một số rất ít các cụ già trầu móm mém hơn bảy tám mươi thuộc lớp người cũ c̣n lại là được tự do tín ngưỡng đến chùa, những người ấy qua đời rồi th́ tín đồ tại gia cũng hết !
Một em bé trai mười hai tuổi ở thị xă Thái B́nh chỉ thích đi tu, em thường đến chùa Kỳ Bá tụng kinh, có khi ở lại chùa mấy hôm liền. Tối đến công an vào chùa đuổi, em chui vào gầm giường hoặc trèo lên cây để trốn. Sau nhiều lần như thế, bố mẹ em được gọi lên ty công an bảo phải đến chùa bắt em về và ra lệnh cho sư già ở chùa không được chứa chấp, nếu không nghe sẽ bị "xử lí". Đó là âm mưu tiêu diệt mầm non của Phật giáo và cộng sản hy vọng trong ṿng năm mươi năm là Phật giáo sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn trên cả nước. Nhưng người xưa đă nói "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", người Tây phương cũng có câu tương tự : "Man proposes, God disposes", nghĩa là con người mưu tính là một chuyện, nhưng nên việc hay không th́ lại do trời. Mà thực vậy, bức tường Bá Linh đă sụp đổ, khối cộng sản Đông âu và Liên xô đă tan ră, cộng sản Việt Nam không c̣n đủ th́ giờ để thực hiện được việc đó nữa đâu.
Thời đại "nhất đội nh́ trời" không c̣n nữa và chủ nghĩa duy ư chí "Thằng trời đứng ra một bên, để cho thủy lợi tiến lên thay trời" cũng chẳng c̣n giá trị ǵ nữa. Khối cộng sản Liên xô sụp đổ cũng chỉ v́ thái độ kiêu căng ngạo mạn và ngông cuồng ấy. Nhà sử học Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ năm trước tây lịch là ông Herodotus đă nói : "Vận mệnh của một chế độ chia làm ba giai đoạn : giai đoạn thứ nhất là thành công, giai đoạn thứ hai là kiêu căng, giai đoạn thứ ba là sụp đổ".
Đến năm 1975, cộng sản toàn thắng miền Nam về tiếp thu Sài g̣n. Đối với Phật giáo, đại khái cộng sản cũng làm y hệt như ngoài miền Bắc, nghĩa là cũng chiếm dụng các chùa, các cơ sở giáo dục, văn hóa, như các trường Trung tiểu học Bồ đề, viện Đại học Vạn Hạnh, các Trung tâm văn hóa, từ thiện xă hội từ Trung ương đến các địa phương trên toàn miền Nam, tất cả đều bị chiếm dụng vào các mục đích đại để cũng như ngoài miền Bắc.
Các viện Phật học phải giải tán để tăng ni sinh về quê sản xuất, các chùa chỉ để một vài sư già, sư trẻ phải đi nghĩa vụ hoặc về quê làm ruộng, đại khái cũng hệt như ngoài miền Bắc. Về cơ cấu tổ chức của Phật giáo th́ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) là đối tượng chính mà cộng sản, bằng mọi cách, phải triệt hạ cho bằng được và, dĩ nhiên, cũng dùng thủ đoạn gậy ông đập lưng ông. Nhưng thủ đoạn nầy chỉ áp dụng được với Phật giáo mà thôi, chứ không dùng được với Công giáo mà họ gọi là "cứt gà sáp" như đă nói ở trên.
Trước hết, cộng sản đẻ ra cái gọi là "Ban liên lạc Phật giáo yêu nước" do sư cụ Minh Nguyệt làm trưởng ban, đặt trụ sở tại chùa Vĩnh Nghiêm ở đường Công Lư Sàig̣n. Đứng về phương diện luận lí mà nói, đă có phật giáo yêu nước th́ tất phải có Phật giáo không yêu nước, hoặc nói theo ngôn ngữ của cộng sản là "Phật giáo phản động". Vậy cái Phật giáo phản động ấy là Phật giáo nào ? Đích thị là GHPGVNTN rồi chứ c̣n ai nữa. Như vậy, theo chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp của đảng cộng sản th́, tất nhiên là Phật giáo yêu nước phải đấu tranh để tiêu diệt Phật giáo phản động. Oái ăm thay ! Một đảng chính trị như đảng cộng sản Việt Nam, lúc nào cũng hô hào đoàn kết, đại đoàn kết, mà lại chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp, th́ đoàn kết làm sao ? Thật là mâu thuẫn.
Phật giáo Việt Nam có mặt trên đất nước này suốt ḍng lịch sử trên dưới hai ngh́n năm, đă cùng chung một vận mệnh thăng trầm vinh nhục, qua các thời đại, đă có lần nào Phật giáo phản bội dân tộc chưa, để giờ đây phải lập ra Phật giáo yêu nước, yêu chủ nghĩa xă hội để đấu tranh căm thù với Phật giáo phản động ?
Từ đó, cộng sản dùng các vị tăng "yêu nước, yêu chủ nghĩa xă hội" đi hăm dọa thúc ép tăng ni trong GHPGVNTN gia nhập Ban liên lạc Phật giáo yêu nước. Hai người hăng hái và đắc lực nhất trong việc này là sư cụ "nằm vùng" Pháp Lan và sư Từ Hạnh. Tuy bị hăm dọa, ép buộc, khủng bố, nhưng chỉ có một số rất ít tăng ni nằm vùng hoặc v́ quá sợ hăi mà phải tham gia cho yên thân, c̣n tuyệt đại đa số tăng ni trong Giáo hội, từ Quảng Trị vào đến Cà mau, vẫn một ḷng trung thành với Giáo Hội và kiên tŕ chịu đựng.
Đến tháng 11 năm 1975, xẩy ra vụ tự thiêu tập thể của mười hai vị tăng ni ở Thiền viện Dược sư tại Rạch G̣i thuộc tỉnh Cần Thơ để phản đối cộng sản đàn áp Phật giáo. Măi đến tháng 12 năm 1976 vụ ấy mới được báo cáo lên Giáo hội Trung ương. Viện Hóa Đạo GHPGVNTN gửi văn thư khiếu nại với nhà nước cộng sản, yêu cầu điều tra sự việc. Ông Mai Chí Thọ, lúc đó là Giám đốc sở Công an thành phố Sàig̣n, đến chùa Ần Quang đề nghị Viện Hóa Đạo cử người đi điều tra (xin nói lại ở đây là kể từ ngày 30-4-1975 đến hôm ấy, Viện Hóa Đạo đă gửi tất cả sáu mươi hai (62) văn thư lên nhà nước cộng sản phản đối và yêu cầu giải quyết các vụ bắt bớ tăng ni Phật tử và đập tượng phá chùa, lấy chùa làm nhà đở đẻ, nhưng không hề được trả lời. Đây là lần đầu tiên một thư khiếu nại của Viện Hóa Đạo được đáp ứng và dĩ nhiên họ đă sắp đặt như thế nào để có lợi cho họ rồi đó).
Bấy giờ Thượng tọa Trí Tịnh đề nghị rằng sự việc xẩy ra đă hơn một năm rồi, thôi, xin bỏ qua ! Nhưng cố Thượng tọa Thiện Minh, Thượng tọa Huyền Quang và tôi phản đối đề nghị ấy và yêu cầu Viện Hóa Đạo cử người đi điều tra, Viện liền cử Đại Đức Hộ Giác và tôi đại diện Viện đi điều tra, nhưng sau Đ.Đ. Hộ Giác bận việc khác nên chỉ có tôi đi. Tất nhiên, như tôi vừa nói ở trên, mọi việc đă được nhà nước cộng sản sắp đặt cả rồi, đi điều tra chẳng qua chỉ là để hợp thức hóa cho cái kết quả mà họ đă định sẵn.
Trong cuộc điều tra này, có ông Huỳnh Châu Sổ, Phó Thanh tra Trung ương từ Hà Nội vào, chủ tŕ cuộc họp. Ngoài ra có nhiều cán bộ địa phương, trong đó tôi để ư có một người to béo vạm vỡ, lúc nào cũng nh́n tôi trừng trừng với nét mặt hầm hầm dữ tợn, đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống người ta, h́nh như để uy hiếp tinh thần tôi. Về giới sư th́ có sư cụ Thiện Hào và sư Huệ Thành là thầy của Đại Đức Thích Huệ Hiền.
Có một số "nhân chứng" được lựa chọn từ địa phương xẩy ra vụ tự thiêu được đưa lên ngồi sẵn đó. Sau ngày đầu làm việc tại thành phố Cần Thơ, tôi yêu cầu được về tận Thiền viện Dược sư cách thành phố Cần Thơ năm mười cây số để xem xét hiện trường, nhưng họ bảo là về đó không an ninh ! Tôi nói bây giờ chính quyền cách mạng làm chủ cả nước c̣n ai làm ǵ nữa mà không an ninh ?.
Nhưng đó chỉ là cái cớ, chứ thực th́ Thiền viện Dược sư đă bị san bằng và xới đất lên trồng chuối rồi. Sau khi mười hai tăng ni tự thiêu, cán bộ địa phương kéo mười hai cái xác ra để bên lề đường cho những người qua lại được thấy, sau đó hai ngày họ phun xăng vào đốt rồi tất cả phần c̣n lại của mười hai xác chết được dồn vào hai cái quan tài và họ đưa đi chôn ở đâu, không ai biết.
Sau ba ngày làm việc, ông Huỳnh Châu Sổ đúc kết biên bản cuộc điều tra qua mấy điểm dưới đây :
1) Huệ Hiền (tức vị trụ tŕ Thiền viện Dược sư đứng đầu trong mười hai tăng ni tự thiêu) trước đây làm chỉ điểm (CIA) cho Mỹ Ngụy, sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, y sợ bị cách mạng trừng trị nên đă tự tử và bắt mười một người khác chết theo y ;
2) Trước đây Huệ Hiền được Mỹ Ngụy cung cấp lương thực đầy đủ, nhưng nay thấy không c̣n phương tiện sinh sống nên phải tự tử tập thể.
3) Huệ Hiền đă dâm ô hủ hóa với mấy ni cô, sợ việc ấy đổ bể, nên y đă tự tử và đốt chùa cùng với mười một người khác.
Các nhân chứng cũng nói hệt như vậy và nhất là sư Huệ Thành, thầy của Đ.Đ. Huệ Hiền cũng công nhận như vậy ! Sau đó họ bảo tôi kí vào biên bản đúc kết ấy. Tôi nói tôi không kí, v́ nội dung biên bản đúc kết hoàn toàn trái ngược với bức thư tuyệt mệnh của Đ.Đ. Thích Huệ Hiền đề ngày 29 tháng 9 năm Ầt Măo (2-11-1975) nên tôi không kí. Để chứng minh, tôi đọc nguyên văn bức thư tuyệt mệnh ấy như sau :
Ngày 29-9 Ấm lịch 75
Nam mô Đông phương Giáo chủ Lưu Ly Quang Như Lai tác đại chứng minh.
Đệ tử chúng con xuất gia, Thiền viện Dược sư, kính dâng lên chư Phật Bồ tát Thánh hiền tăng lời tâm huyết phát nguyện của đệ tử tăng ni toàn chùa, thiêu thân ngày 29 tháng 9 năm Ầt Măo, tức ngày 2 tháng 11 năm 75.
- Để bảo vệ tiền đồ Phật pháp, chánh pháp Như lai bất diệt ;
- Để bảo vệ phẩm giá và đức hạnh người xuất gia trường cửu ;
- Để bảo vệ ngôi Tam bảo Thiền viện Dược sư bất diệt ;
- Tha thiết kêu gọi chính phủ cách mạng lâm thời cộng ḥa miền Nam Việt Nam, Mặt trận giải phóng tôn trọng triệt để tự do tín ngưỡng của các tôn giáo đúng mức ;
- Tha thiết kêu gọi tăng ni đồng bào Phật tử các giới Việt Nam thân yêu phải nhứt quyết nhứt tâm bảo vệ trái tim Bắc và Nam theo lời di chúc Hồ chủ tịch vĩ đại, Bắc và Nam chỉ một trái tim, nếu một ai xé nát trái tim người Việt Nam, không luận kẻ thù hay kẻ thân đều là phản bội lời di chúc của Bác Hồ chí minh vĩ đại. Kẻ ấy là nối giáo cho giặc, phản bội dân tộc cách mạng.
- Lá cờ Phật giáo thế giới, GHPGVNTN tiêu biểu cho sáu hào quang chư Phật và Lục thông chư Phật bất diệt trường cửu ;
Cầu nguyện độc lập tự do ḥa b́nh trường cửu bất diệt.
Sau đó, Đ.Đ. Thích Huệ Hiền ghi tên mười hai tăng ni do Đại Đức đứng đầu, phát nguyện tự thiêu v́ bảy thỉnh nguyện kể trên và Đại Đức kết luận :
- Chết vinh hơn sống nhục
- Chấp nhận chết bảo vệ lí tưởng
- Chấp nhận chết bảo vệ lương tâm
- Chấp nhận chết bảo vệ chân lí
Đại diện tăng ni Trụ Tŕ
Ần kư
Đại Đức Thích Huệ Hiền.
Trên đây là bức thư tuyệt mệnh của Đ.Đ.Thích Huệ Hiền viết trước khi tự thiêu cùng với mười một vị tăng ni khác. Nội dung bức thư, như tôi đă nói trên, hoàn toàn khác với ba điểm đúc kết biên bản điều tra của ông Huỳnh Châu Sổ, do đó tôi đă không thể kí vào biên bản ấy. Họ giữ tôi lại thêm một ngày một đêm để làm áp lực buộc tôi phải kí, họ định dùng tôi để hợp thức hóa cho những điều dối trá của họ, nhưng tôi đă kiên quyết từ chối. Sau cùng họ thấy không lung lạc được nên đành phải đưa tôi về chùa Ần Quang. T.T. Huyền Quang và các sư thấy tôi về rất mừng, v́ đă ba bốn hôm không thấy tôi về cũng lo. Cuộn băng ghi lại những điều tôi phát biểu trong cuộc họp điều tra th́ họ tịch thu, không cho tôi mang về, viện lí do đó là "bí mật quốc gia" !
Trong chuyến đi này, tôi được biết một số chi tiết nhỏ, nhưng mang một ư nghĩa quan trọng. Vào một buổi sáng, tôi vừa điểm tâm xong, một ông cán bộ vào chỗ tôi nói chuyện chơi trước khi ra pḥng họp. Ông nói về việc phát triển đất nước, về xây dựng chủ nghĩa xă hội. Nhưng ông nói : "Chúng tôi chưa phải là những người xây dựng chủ nghĩa xă hội chuyên môn, chỉ c̣n đang thực tập thôi, nhưng làm măi cũng phải được. Cũng như người thợ mới tập đóng cái bàn (vừa nói ông vừa chỉ vào bàn ăn), đóng cái này chưa được th́ đóng cái khác, cứ đóng măi rồi cũng phải được".
Tôi nghe mà giật ḿnh, v́ người cộng sản quan niệm việc quản lư một đất nước sao mà quá đơn giản ! Đến tháng 2 năm 1982, cộng sản đưa tôi ra Bắc quản thúc tại xă Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái B́nh, tôi mới nghiệm ra là lời nói của ông cán bộ kia quả đă đúng. Về nông nghiệp, như tôi đă nói ở phần 1, năm 1956, sau cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, giết các địa chủ, đảng cộng sản chia ruộng cho dân làm chủ và lập Tổ đổi công làm lẫn cho nhau: đây là người thợ đóng cái bàn đầu tiên. Đến năm 1960, đảng bắt đầu góp hết ruộng vào Hợp tác xă lớn để làm chủ tập thể: đây là đóng cái bàn thứ hai. Đến năm 1980, thấy lối làm ăn tập thể thất bại, đảng đề ra chính sách khoán sản phẩm: đây là đóng cái bàn thứ ba. Đến năm 1985, chính sách khoán sản phẩm cũng chẳng ra ǵ, đảng bèn cho khoán trắng: đây là đóng cái bàn thư tư !
Các đảng phái quốc gia+ giáo phái.. ..không phục tùng chính phủ Ngô đ́nh Diệm.
[QUOTE=Cao Cầu;178641] Hơn 5000 đảng viên VNQDĐ và Đại việt bị Diệm và VC thay phiên nhau sát hại. VC th́ ám sát, c̣n Diệm th́ đem đi mất tích .[/QUOTE]
Các chiến khu của Đại Việt Quốc Dân Đảng trong thời kỳ chống chế độ độc tài Ngô Đ́nh Diệm:
* Chiến Khu Ba Ḷng:
[B][COLOR="#B22222"]Được thành lập tại vùng rừng núi phía Tây tỉnh Quảng Trị nhằm mục đích chống lại chế độ gia đ́nh trị của Nhu Diệm[/COLOR][/B], đồng thời cũng là cơ hội dẹp tan các âm mưu cố thủ của Cộng Sản tại nam vĩ tuyến 17. Từ Ba Ḷng các chiến sĩ Đại Việt phát triển các tiền đồn tại Thừa Thiên: Khe Mương, Dương Ḥa, Nam Đông và tại Quảng Nam: Bến Hiên, Đại Mỹ.
Bộ tư lệnh chiến khu gồm có Đ/C Hà Thúc Kư, Trần B́nh, Phạm Văn Bôn, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Lư, Hoàng Văn Hiền, Nguyễn Ngọc Cứ, Nguyễn Văn Mân, Hoàng Xuân Tửu...
* Chiến Khu Nguyễn Huệ:
Được thành lập tại vùng núi phía Tây quận Tuy Ḥa do chủ trương của các Đ/C Trương Tử An, Trương Thị Thỉnh.
*Chiến Khu Châu Đốc:
Được thành lập tại vùng biên giới tỉnh Châu Đốc và Cam Bốt dưới sự chỉ huy của Đ/C Nguyễn Văn Xinh.
([url]http://www.tinparis.net/chanhtri/DV_quocdandang_ls.html[/url])
_________________________________________________________________________________________
[B][COLOR="#B22222"]Đầu năm 1958 Hoa Kỳ cho phép CIA Saigon bắt liên lạc với các đảng chính trị đối lập. Tài liệu nói nhân viên của CIA mua chuộc và thành lập một lực lượng đối lập “ngay sau lưng ông Nhu,” để trong trường hợp phải thay đổi cấp lănh đạo mới. Cuộc đảo chánh 11 tháng 11-1960 là một “hăm dọa” của Hoa Kỳ đối với tổng thống Diệm: Nhân viên CIA có mặt ở tại bộ chỉ huy của đại tá Nguyễn Chánh Thi và kế bên ông Hoàng Cơ Thụy[/COLOR][/B] để giới hạn bước tiến của quân đảo chính – điệp viên Russ Miller khuyên đại tá Thi nên thượng lượng với ông Diệm, trong khi biết rơ quân ủng hộ chính phủ của đại tá Trần Thiện Khiêm đang trên đường từ Vùng IV về thủ đô tiếp cứu. Khi thấy thái độ trở mặt của CIA, lưới t́nh báo của ông Nhu cũng không hoàn toàn thụ động: Phó Sở CIA Saigon, Douglas Blaufarb, ngỡ ngàng khi ông khám phá ra người tài xế Việt Nam của ông không bị điếc như lúc được giới thiệu vào làm việc (do Trần Kim Tuyến giới thiệu); người tài xế không điếc mà c̣n thông thạo hai ngoại ngữ Anh và Pháp!
([url]http://www.chuacuuthe.com/?p=39289[/url])
Một cái nh́n lịch sử (Bài V, tiếp theo)
[QUOTE=Cao Cầu;178493][QUOTE=Cao Cầu;178429]
MỘT CÁI NH̀N LỊCH SỬ. (bài IV)
(tiếp theo)
Tôi đă lần lượt nói rơ rằng ông Diệm có quan liêu, hống hách, có tham nhũng, độc tài, gia đ́nh trị, lạm quyền, kỳ thị. Đây là những điều mà sách vở đều có ghi chép đầy đủ. Nhưng đó chỉ là cái vỏ bên ngoài. Nhưng nếu cứ lẩn quẩn phiền trách cái tham nhũng, cái gia-đ́nh-trị, cái phong kiến của nhà Ngô th́ quá là nhỏ mọn, v́ những hành vi đó xét cho cùng rất là phổ thông, bất cứ ai ở vào địa vị đó cũng đều có thể cũng làm như vậy. Và nếu để cái nhỏ mọn che tầm mắt th́ không thể thấy được cái bản chất hiễm ác khác nó nằm bên dưới cái vỏ. [b]Theo chiều dài của lịch sử, tôi muốn tŕnh bày một điễm quan trọng nhứt mà sách vở lại chưa thấy phân tách. Các chiến sĩ Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên, các đảng phái Đại Việt, VNQDĐ đều là những người từ dân tộc mà ra, uy tín của họ từ một thành phần dân tộc mà có. Cái quyết tâm, quyết chí giành độc lập, tự do của toàn dân không phải thể hiện ở những người ăn to nói lớn mà tập trung cao độ ở những người dám dấn thân kiên tŕ tạo dựng các lực lượng Việt Nam. Việc thanh toán các đảng phái và giáo phái không phải là những xung đột về cá tánh hay một sự tranh quyền giữa các cá nhân, mà nó là một việc làm có dự mưu.
Tội ác thật sự của Ông Diệm là đă dựa vào quyền lực mà ngoại bang cho, để chống phá, đàn áp và thủ tiêu nội lực của dân tộc. Đứng tại quan điễm Tổ quốc và dân tộc, tội của Ngô Đ́nh Diệm nặng hơn tội của Lê Chiêu Thống. Nhưng cũng v́ vậy, ở một quan điễm khác, ông có thể được phong Thánh.
Ngày 8-1-1985, Việt cộng tử h́nh Trần Văn Bá, Lê Quốc Túy, Hồ Thái Bạch. Họ đă làm ǵ nên tội? Từ giă Âu châu ấm no, các liệt sĩ chấp nhận nguy hiểm và gian khổ trở về nước để t́m cách xây dựng lại từ đầu tại Tây Ninh một lực lượng vơ trang chống cộng (DTST tr. 6) mà ba chục năm trước, - khi ông Diệm về nước - đă có sẳn rất là hùng hậu (20 ngàn quân Cao Đài và 30 ngàn quân Ḥa Hảo) mà chẳng những ông Diệm không dùng lại c̣n trở mặt bức hại.
Và trong t́nh trạng bị CS đô hộ ngày nay, ai trong chúng ta lại không mơ ước Miền Đông và Miền Tây Nam bộ có cơ đứng dậy chống xâm lăng. Nếu ai có mơ ước đó, nếu có ai thật sự kính phục Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch th́ mới hiểu hết cái tai hại ông Diệm đă làm trước đây.
Ngày nay, trong lúc các giáo phái Cao Đài và Ḥa Hảo vẫn luôn luôn chống cộng nhưng không thể cựa quậy ǵ được. Ông Diệm có thể nào phủi tay, coi như không có trách nhiệm ǵ cả?
Rốt cuộc, tạm thời chỉ có một điều có thể đồng thuận. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă có một cơ hội lớn để làm rạng danh Chúa. Nhưng ông đă đánh mất nó đi.[/b]
(c̣n tiếp)[/QUOTE]
Ban Hoang Nguyen,
Th́ ra bạn đă không đọc 4 bài tôi đă post rồi bạn cứ "đ̣i hỏi trưng bằng chứng, nói suông cũng được..." làm cho tôi hiểu lầm bạn chơi tṛ "láu cá" . Thôi xin xí xoá nhé . Bạn hăy theo link mà đọc trọn bài. Hăy chú ư đến đoạn tác giả kể rơ đến từng chi tiết nhỏ về chủ mưu tiêu diệt các giáo phái, các đảng phái quốc gia, VNQDĐ và ĐV . Tôi là nhân chứng biết rơ về âm mưu tiêu diet VNQDĐ tại miềm Trung nên tôi tin tác giả là người hiểu biết và công b́nh, không thêu dệt v́ thương hay ghét. Bạn cố gắng đọc hết đi , rồi xin cho ư kiến. Đây là vấn đề lịch sử, không có hại ǵ đến công cuộc giải từ CS giải phóng quê hương, tôi nghĩ như vây.
MỘT CÁI NH̀N LỊCH SỬ (Bài V, tiếp theo)
Nguồn: [url]http://truongxuabancu.freepowerboards.com/viewtopic.php?f=9&p=11614[/url]
C̣n Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu th́ sao?
Khi viết bài này, tôi không c̣n nhớ có đọc ở đâu câu chuyện một tướng rủ ông Thiệu đảo chánh. Thay v́ ông hỏi làm như vậy có ích lợi ǵ cho đất nước, th́ ông lại hỏi ‘người Mỹ có đồng ư chưa?’ Thời Đệ Nhị Cộng Ḥa, Tổng Thống Thiệu nằm trong tay Mỹ lộ liễu hơn.
‘Trong hồ sơ Nguyễn Văn Thiệu lưu giữ tại Ṭa Đại Sứ Mỹ ở Saigon đă phê y với câu sau: ‘Very receptive to American advices’. Người bạn Mỹ tên là R.W.J tiết lộ câu ấy với tôi. Tôi b́nh phẩm:
Đó là lời phê ‘bảng vàng’ đă đưa Nguyễn Văn Thiệu lên đến địa vị tối cao, nắm giữ vận mệnh của Miền Nam?’Nguyễn Chánh Thi, tr. 327.
Nguyễn Tiến Hưng có thuật lại rằng năm 1971, thầy ḿnh là ông Warren Nutter lúc bấy giờ là Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Pḥng có khuyên rằng VNCH nên t́m cách chủ động hơn. Nguyễn Tiến Hưng đem bàn với ông Thiệu và được ‘ông cũng đồng ư chấp thuận đề nghị mà tôi gọi là ‘hai Miền trong một đơn vị kinh tế’. Tuy nhiên ông lại dặn tôi thử thăm ḍ ư kiến Mỹ xem sao? Tôi thầm nghĩ rằng ḿnh muốn phía VNCH đưa ra sáng kiến, ông lại bảo ḿnh hỏi Mỹ.’ (Tr. 453)
Chính v́ có đầu óc vọng ngoại như vậy mà ông Thiệu mới được Mỹ chọn làm Tổng Thống.
Đệ nhứt và Đệ nhị Cộng Ḥa đều có những h́nh ảnh xấu xa để thế giới và dân chúng Việt Nam xem, nào là gia đ́nh trị, độc tài, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị địa phương, tham nhũng, buôn lậu, mua quan bán tước v.v… Có người cho đó là những lư do để thua. Nhưng thật ra đó chỉ là những triệu chứng ngoài da của một căn bịnh nội tạng. Những điểm tiêu cực đó chỉ là tiêu tỏi ớt để cho Việt Cộng lớn lên. C̣n VNCH đă thua không phải v́ tim ngưng đập hay lỗ mũi không thở mà v́ chứng lỏng ruột kinh niên.
Nguyễn Tiến Hưng diễn đạt một cách khác với nhiều chi tiết hơn:
‘Tôi vẫn khẳng định rằng sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ gần như hoàn toàn, cả về vật chất lẫn tâm lư là yếu tố quyết định’
Hảy nh́n lại cuộc chiến 1945-1954, chính nước Pháp
Cũng đă phải lệ thuộc vào Mỹ như vậy. Mức độ chiến tranh càng cao, Pháp càng phải dựa vào tiền bạc của Mỹ. Tới khoảng thời gian 1950-1954, trên 75% ngân sách chiến tranh Đông Dương là do Mỹ đài thọ. Đến thời VNCH, cũng trên 75% ngân sách Quốc Pḥng (trả lương cho quân đội) là do viện trợ Mỹ. Rồi toàn bộ quân trang, quân dụng, từ khẩu súng, viên đạn, lít xăng, tới xe tăng, đại bác, máy bay, cái ǵ cũng có nhăn hiệu MDAP (Military Defense Assistance Program).
Về mặt kinh tế, khi chiến tranh leo thang, sản xuất trong nước không phát triển được, lại c̣n tụt hậu, cung ứng cho nhu cầu của nhân dân phải dựa vào đôla của Mỹ để nhập cảng. Những sản phẩm cho nhu cầu từ ăn, ở, mặc, tới vận chuyển, một tỷ lệ rất quan trọng được đáp ứng từ ‘viện trợ Mỹ’ . . .
Đó là chưa nói tới những nhu cầu khác như y tế, giáo dục, giải trí. Cũng chưa kể là từng khối lượng lớn hàng hóa (như đồ hộp, radio, TV, tủ lạnh, rượu mạnh, thuốc lá, quần áo) đă được chuyển ra bằng cách này hay cách khác, từ hệ thống tiếp liệu ‘PX’ của Mỹ, đặc biệt là từ căn cứ Long B́nh. Như vậy, về vật chất, sự lệ thuộc hầu như toàn diện. T́nh trạng này lại c̣n dẫn tới sự lệ thuộc tinh thần và tâm lư. Nếu Mỹ c̣n giúp, th́ các nhà lănh đạo và dân, quân Miền Nam c̣n chịu đựng, chiến đấu. Nếu có dấu hiệu là họ bắt đầu bỏ, th́ tinh thần bắt đầu sa sút. Tới lúc bỏ thật là sụp đổ’(tr. 450)
Từ mấy ngàn năm nay, người Việt Nam nào khi chào đời cũng mang trong ḿnh gịng máu ‘chống xâm lăng’. Trong lúc ông Diệm, ông Thiệu múa may quây cuồng th́ người Mỹ đă dâng cho Việt Cộng cái chánh nghĩa ‘chống Mỹ cứu nước’
Trong t́nh trạng như vậy, Việt Nam Cộng Ḥa bắt buộc phải thua. Và đă thua ngay từ ngày thành lập.
Mặc dầu không thay đổi được vận mạng của quốc gia, nhưng con người vẫn phải sống và con người hoàn toàn tự do và trách nhiệm chọn lối đi của ḿnh. Ông Trần Văn Hương khi làm Đô Trưởng cởi xe đạp được tiếng là thanh liêm. Nhưng tới khi VC muốn trả lại quyền công dân cho ông – khác với Dương Văn Minh – ông từ chối, lấy cớ phải chờ đến người cải tạo cuối cùng, th́ ông giáo già đă tuyệt vời tỏ cái sĩ khí của miền Nam. LS Trần Văn Tuyên, sanh năm1913 tại Hà Đông (Bắc Việt), vào Nam năm 1950, bị mật vụ của ông Diệm tra tấn tới què gị. Năm 1975, vào giờ chót được Mỹ đề nghị đưa cả gia đ́nh sang Mỹ, nhưng đă trả lời ‘nếu bỏ đi th́ ai ở lại đấu tranh công khai với CS?. Năm 1976, ông bị bỏ thuốc độc tại nhà giam Hà Sơn B́nh. Cái tận tụy đó, cái khí phách đó, trong lịch sử Việt Nam cận đại đâu có mấy người.
Khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nắm chánh quyền th́ cờ đă tàn rồi. Ông không có cách nào để xoay lại t́nh thế. Ông không có cách nào cản trở tiến tŕnh mất nước. Cho nên Tổng Thống Thiệu không có chút trách nhiệm nào với chuyện mất nước. Trong lúc làm Tổng Thống nếu ông có thanh liêm, tận tụy, th́ người dân ca ngợi ông. Nếu ông có sai trái, tham ô, nếu ông không biết thân là cá trong rọ mà tới giờ chót vẫn c̣n ham th́ người ta chê ông. Nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không có phạm tội với dân tộc và đất nước.
6. – NÓI NHƯ VẬY LÀ ĐỔ THỪA TẤT CẢ CHO MỸ?
Từ 1950, Mỹ đă viện trợ cho Pháp 500 triệu mỹ kim hằng năm cho cuộc chiến Đông Dương.
Ngày 19-3-1954, Quốc hội Pháp biểu quyết ngân sách chiến tranh Đông Dương: trong đó có 139 tỷ quan Pháp và 271 tỷ quan do Mỹ viện trợ.
Như vậy Mỹ đă có đóng góp tiền bạc vào chiến tranh Việt Nam ít lắm là 4 năm trước khi Pháp rút ra và sau đó th́ một ḿnh gánh chịu chiến phí. Nếu năm 1954. Mỹ không vô Việt Nam và không giúp ǵ về kinh tế và quân sự th́ một ḿnh ông Diệm lây quây không quá một năm th́ chắc chắn bị CS Bắc Việt nuốt trỏng.
Nhờ Mỹ có vô Việt Nam mà tới 1975 Việt Nam mới mất, nhân dân Miền Nam phải biết ơn Mỹ 21 năm chưa bị Bắc Việt đô hộ.
Trừ phi Việt Nam là một tiểu bang của Mỹ và người Việt Nam đi bầu Tổng Thống Mỹ. c̣n không th́ người Mỹ không có trách nhiệm ǵ với Việt Nam. Người Mỹ vô Việt Nam v́ quyền lợi của Mỹ và ra khỏi Việt Nam cũng v́ quyền lợi của Mỹ. Mỹ vô Việt Nam để chận sự bành trướng của CS chớ không phải để thắng Việt Cộng. Và khi không c̣n nhu cầu ngăn chận nữa th́ Mỹ nhảy ra. Mỹ vô Việt Nam không phải để giúp Việt Nam lớn mạnh, tự lập, tự cường, tự quyết. Có một cơ hội mà người Mỹ có thể giúp đở phương tiện cho các giáo phái và đảng phái miền Nam lớn mạnh để chận đứng sự nổi dậy của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Đó là cơ hội duy nhứt, đó là quyền lợi của nhân dân miền Nam. Nhưng Mỹ đă không làm như vậy và không thể làm như vậy. Chỉ có trường hợp này th́ có thể gượng gạo nói Mỹ đă chơi không đẹp, chớ không phải là những lời thất hứa của Nixon lúc cờ tàn.
Cho nên mhững lời trách cứ là Mỹ phản bội Việt Nam là không hợp với những quy tắc sơ đẳng của bang giao quốc tế. Người công dân chỉ có bổn phận trung thành với nước của ḿnh. Người Mỹ đâu có bổn phận trung thành với VN th́ sao trách họ phản bội ta?
Có người nói rằng ông Diệm do Hồng Y Spellman (công giáo Mỹ) giới thiệu. Có người nói ông Diệm do George Bidault (công giáo Pháp) giới thiệu. Những điều này không có quan trọng, v́ đó chỉ là những giấy giới thiệu để đi t́m job. Một khi có job rồi th́ ai cũng phải bị chi phối bởi một định luật viết cả ngàn năm nay bằng tất cả thứ tiếng trên thế giới: ‘ai trả tiền th́ người đó làm chủ, ai nhận tiền th́ phải thi hành lịnh.’. Nói theo kiểu người Úc ‘làm ǵ có bửa cơm trưa miễn phí!’
Người Mỹ đă trả đủ thứ tiền cho Việt Nam và sau khi làm xong việc của họ rồi th́ họ nhảy ra. Đối với những sai lầm về chiến lược, về chiến thuật của các cấp chỉ huy Mỹ, người Mỹ đă trả giá bằng tiền bạc và xương máu của binh sĩ Mỹ. Nếu họ có lỗi th́ là lỗi với lịch sử của họ.
Như vậy cuối cùng tại ai mà mất miền Nam?
Phải có hai điều kiện mới có thể cứu miền Nam.
Thứ nhứt: ông Diệm phải là người thật sự dân chủ, yêu nước nồng nàn đến mức độ dẹp bỏ tự ái, không t́m cách chia rẽ như đă làm.
V́ từ sự liên hiệp với các giáo phái, tới việc mua chuộc một số người của các giáo phái để rồi trở mặt hẳn, tiêu diệt các nhà lănh đạo giáo phái, hai anh em Nhu, Diệm đă gây ra một sự phân hóa chính trị chưa từng có tại miền Nam. CBL tr. 177
Thà là mềm dẽo với người Việt hơn là luồn cùi với ngoại bang. Cái dũng là ở chỗ đó. Nhưng Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm không có cái dũng này.
Tôi đă để hơn hai mươi trang giấy để nêu lại các sự kiện lịch sử trong đó Tổng Thống Diệm có rất nhiều khuyết điễm về chánh sách cũng như về nhân phẫm. Đây là việc bắt buộc phải làm một cách trung thực th́ mới giải thích được lịch sử.
Nếu như ông Diệm đă không có những khuyết điễm nêu trên - gọi là khuyết điễm theo nhản quan của người Việt nhưng lại là lợi điễm theo quan điểm của người Mỹ - mà là người thức thời và thật sự yêu nước th́ ông đă không được chọn. Nếu ông không được chọn th́ vẫn có người khác đang chực chờ t́nh nguyện làm con cờ cho Mỹ, người thi hành có thể không mang tên Ngô Đ́nh, nhưng chánh sách của Mỹ không có ǵ thay đổi.
Thứ hai: Mỹ phải tận t́nh giúp các giáo phái và đảng phái chống cộng. Nhưng Mỹ không có tận t́nh được v́ ‘Lư do quan trọng nhất mà Hoa Kỳ nhảy vào cuộc chiến là quyền lợi của Hoa Kỳ’ (NTH, tr.467). Và quyền lợi của quốc gia VN không có trong bài toán của Mỹ.
Câu chuyện rơ ràng như ban ngày. V́ chiến lược toàn cầu của Mỹ, có khi Mỹ cần có mặt ở nước này, có khi cần có mặt ở nước kia. Trước đây ở VN, sau này ở Irak, ở Afghanistan, Mỹ chỉ muốn tự do nhảy vô, và khi nhảy vô rồi th́ tự do hành động và khi xong việc th́ tự do nhảy ra. Muốn được tự do như vậy th́ chuyện đầu tiên mà Mỹ phải làm là tiêu diệt ngay lực lượng dân tộc của nước ấy. Nội lực của một dân tộc theo chức năng thiêng liêng của nó không cho phép một ngoại bang nào vào nước ḿnh muốn làm ǵ th́ làm. Do đó, Mỹ không thể nào làm điều nghịch lư mà nuôi dưỡng một lực lượng dân tộc. Đây không phải là vấn đề thiện ác, tiểu nhân hay quân tử. Đây chỉ là định luật đấu tranh xưa nay trong thiên hạ. Độc thủ này trong nhứt thời rất là hiệu nghiệm, nó cho kết quả liền như mong muốn, nhưng với thời gian, kế sách lộ ra chân tướng nên đương nhiên đưa đến phản căm.
Mỗi điều kiện là một tiền đề nan giải rồi th́ làm sao thỏa măn hai điều kiện nan giải cùng một lúc?
V́ các lư do ‘con rắn cắn cái đuôi’ đó mà ta có thể quả quyết cái vận miền nam phải mất mà không thể quy trách cho một người nào.
Để được việc cho ḿnh, khi mới bước vô, Mỹ đă phải hạ thủ nội lực VN. Sau này, để chuẩn bị rút ra nên không cần phải thao túng nữa, người Mỹ có t́m cách giúp lại các giáo phái, mong gỡ gạc lại chút căm t́nh. Đại Tá Lê Văn Tất được mời làm Tỉnh Trưởng Tây Ninh.
Quần chúng Nam Bộ đă dửng dưng khi ông Diệm dẹp các giáo phái, v́ lúc ban đầu hiểu lầm rằng đó chỉ là chuyện tranh ăn, tranh quyền đơn giản. Chín năm sau, mở mắt ra, lại có căm t́nh với các giáo phái. Nhưng đă quá muộn. Các vùng trước kia thuộc địa phận an toàn của giáo phái bây giờ ung thúi CS rồi. Đánh lại lá bài giáo phái sẽ phải khó khăn vô cùng. Nhưng suy nghỉ tận cùng, chỉ có tôn giáo ăn sâu vào ḷng dân tộc mới có khả năng chống cộng.
Tuy nhiên, Dân c̣n đó, Đất đai c̣n đó, nhưng Nước th́ đă mất từ lâu. Sau khi đô hộ VN không xong, người Pháp giao nước VN cho Mỹ chớ không phải giao cho ông Diệm. Nếu ta muốn bán nhà hay đất th́ phải có bằng khoán. Nếu ta muốn bán xe hơi th́ phải có thẻ chủ quyền. Từ hơn hai trăm năm nay, người dân VN chưa có sống được một ngày nào độc lập, tự do thật sự. Ông Diệm hay ông Thiệu làm ǵ có nước để mà bán. Cả hai, kẻ trước người sau phải lái chiếc máy bay hết xăng đăm xuống biển. Vận nước phải biến như vậy mà thôi.
Sự kiện này giải thích rằng ước vọng hiệp thương với Bắc Việt như ‘hai Miền trong một đơn vị kinh tế’, ‘trung lập chế’, ‘ḥa hợp ḥa giải dân tộc’ hoặc tin đồn Ngô Đ́nh Nhu đi đêm, đều là ảo vọng. Miền Bắc có nội lực, miền Nam không có. Không có nội lực th́ lấy ǵ làm đ̣n bẩy để mà thương thuyết. C̣n kẻ có nội lực đâu bao giờ có ư định nghiêm chỉnh thương thuyết với kẻ trống ruột, v́ trước sau ǵ cũng nuốt được trọn gói.
Hoặc nếu có tiếp xúc thật sự, th́ đó chỉ là mèo giởn chuột. Phải là người hoàn toàn mất trí mới chịu đóng vai con chuột.
II. – SAU 1975, VIỆT CỘNG CHO VNCH CHÁNH NGHĨA
Nếu sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 có ḥa hợp ḥa giải thật sự?
Hai bên buông súng, lính tráng ôm nhau mà hôn mà khóc, th́ dân chúng hai miền vui mừng biết bao. Cuộc chiến đă kéo dài quá lâu. Ngoại trừ những người lănh đạo, dân chúng không ai mong mỏi chiến thắng. Người dân miền Nam bất cần ai chiến thắng, v́ họ nghĩ rằng mặc ai chiến thắng, người dân vẫn là người dân. Đối với người mẹ già ṃn mỏi, đối với đứa trẻ thơ ngơ ngác, đối với người lính chiến ngổn ngang trăm nỗi, cuộc chiến không c̣n có ư nghĩa chánh trị thần thánh nào. Nó trở thành một thứ tai trời ách nước. Người dân miền Nam chỉ mong mỏi ḥa b́nh.
Ḥa b́nh!
Ḥa b́nh!
Đó là ước mơ chung của dân chúng miền Nam. Cái mục tiêu chung bây giờ đạt được rồi. Mọi người trở về xóm làng xây dựng lại. Tài nguyên, đất đai có thừa cho mọi người cùng sống, đâu cần ǵ phải giành giựt, xô đẩy. Cái sợ nhứt của người dân là làm sao đừng có chuyện ban đêm có người gỏ cửa dẫn thân nhân đi mất tích. Làm sao giữa ban ngày đừng có cường hào ác bá.
Khi cái ước mơ của quần chúng và ước mơ của lănh tụ là một th́ dân chúng có một minh quân v́ lănh tụ nhận nhiệm vụ từ dân.
Khi ước mơ của quần chúng và ước mơ của lănh tụ khác nhau th́ đương nhiên quần chúng sẽ bị gạt và lănh tụ muốn thực hiện ước mơ riêng của ḿnh bắt buộc trở thành bạo chúa.
Cầu xin được yên ổn làm ăn. Ước mơ đơn sơ của người dân như vậy mà đạt được th́ Hồ Chí Minh thật sự là anh hùng của dân tộc, c̣n hơn nữa, là một vĩ nhân của thế giới như một đề nghị dự định đem ra bàn thảo tại UNESCO. Ông sẽ là người ái quốc đă can đảm chấp nhận tột cùng đau khổ để thi triển tuyệt chiêu ‘cứu cánh biện minh cho phương tiện’
Nhưng sự đời lại không phải xẩy ra như vậy.
1.- Ăn cướp
Việc CS ăn cướp khi chiếm được miền Nam như thế nào có đồng bào miền Nam thấy tận mắt, đă có sách báo viết rất nhiều. Nên tôi không có lập lại ở đây. Tôi chỉ nhắc lại một điều mà ít khi người ta nói đến. Đó là trong số những người ăn cướp ngày nay cũng có người ngày xưa liều mạng lên đàng, mang ước mơ xây dựng một thế giới đại đồng, trong đó không có ai ăn cướp của ai.
2.- Bắc-kỳ-trị
Đây là một danh từ húy kỵ, ai cũng nghĩ đến mà không ai dám nói ra, cho nên cần phải định nghĩa rơ ràng th́ mới hy vọng tránh được sự chụp mũ hồ đồ.
Trước tiên phải nói rằng dân Việt Nam là một. Không có sắc dân Nam kỳ riêng biệt. Người Nam kỳ cũng chỉ là người Bắc kỳ hai ba trăm năm trước đi vào Nam lập nghiệp. Đa số những người này là lính của Chúa Nguyễn và một số tù binh của Chúa Trịnh. Có thể v́ tắm nước sông Cữu Long và uống nước sông Đồng Nai nhiều quá mà giọng nói có khác đi một chút, nhưng t́nh căm dân tộc không có chia rẻ. Khi miền Bắc bị những tai ương như lũ lụt, đói kém, dân miền Nam vẫn nồng nhiệt quyên góp để giúp đở. Trong nạn đói Ất Dậu ở miền Bắc, hội y sĩ của BS Nguyễn Văn Thinh trong 20 ngày (15-4 đến 5-5) đă quyên được 153.312 đồng (Chính Đạo tr. 220). Tính theo thời giá bây giờ là bao nhiêu triệu Mỹ kim?
Rừng núi, đất đai miền Nam rộng mênh mông, chưa khai phá hết. Sở dĩ người giàu miền Bắc không chịu vô Nam v́ họ không chịu rời quê cha đất tổ, nơi đó có mồ mă ông bà. Chớ người Bắc nào vào Nam lập nghiệp đều có thể sống thoải mái. Đất đai là của Trời cho. Người Bắc mới vô hay người Tàu mới tới đều có thể tự nhiên khai phá đất hoang mà làm vườn tược, ruộng nương của ḿnh. Ngoại trừ trường hợp gian manh đóng tiền lập bằng khoán trên đất mà người dân đă khẩn trước – th́ đó là ăn cướp - chớ người miền Nam không có ganh tỵ với người đến sau.
Đến năm 1954, một triệu dân miền Bắc di cư vô Nam, dân miền Nam vẫn nh́n họ như những người bị nạn, đi lánh nạn. Dân miền Nam không có kỳ thị người Bắc di cư.
Những người này mau chóng định cư và làm ăn phát đạt, Họ đă ḥa đồng và đóng góp vào sinh hoạt của miền Nam.
Khi Giáo Sư Vũ Quốc Thúc làm Khoa Trưởng trường Luật hay Giáo Sư Trần Ngọc Ninh làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục, không có ai kỳ thị họ là Bắc kỳ. Ngược lại, người Nam khâm phục học vấn cao thâm của họ.
Bắc-kỳ-trị ở đây là một hiện tượng khác. Đây là những tên Bắc kỳ chưa từng biết Saigon ở đâu, Vĩnh Long ở đâu mà lại cầm cái sự vụ lệnh kư ngoài Bắc vào Nam làm Giám Đốc hay phó giám đốc tại các cơ sở hành chánh, kinh tế, an ninh v.v. . . C̣n nhục mạ hơn nữa, chúng ngang nhiên để một tên Bắc kỳ làm đại biểu Quốc hội cho một tỉnh miền Nam. Chủ trương phân biệt dân tộc này mang danh nghĩa của đảng CSVN, nhưng thực chất đảng CSVN chỉ là Xứ Ủy CS Bắc kỳ mở rộng.
Bây giờ hăy nghe Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang nói:
‘Cho nên Quốc hội Việt nam chỉ là do Đảng cử dân bầu. Sách trắng viết: ‘thông qua bầu cử, người dân tự lựa chọn ra những người đại diện cho ư chí, nguyện vọng của ḿnh’, nhưng thực tế rất nhiều đại biểu quốc hội của một tỉnh không hề sinh ra, lớn lên, cũng không hề làm việc ở tỉnh đó. Có người sinh trưởng, công tác ở Hà Nội lại là đại biểu quốc hội của nhân dân Đồng Nai. Có người sinh trưởng, công tác ở Thanh Hóa lại đại diện cho nhân dân Vũng Tàu’ (Tr. 54)
TS Nguyễn Thanh Giang vốn sanh ra tại Thanh Hóa mà c̣n thưởng thức món giả cầy này không nổi, th́ nhân dân miền Nam làm sao đây?
Trung hoa ngày xưa cũng có gởi Thái Thú qua cai trị Việt Nam. Miền Nam sau 1975 cũng có những Thái Thú Bắc kỳ.
Một người cựu Kháng chiến vừa biết tôi vượt ngục mới về, mời tôi một bửa cơm. Tôi đói quá ăn ngon lành. Không biết để an ủi tôi hay tự an ủi ḿnh. Anh bổng nghêu ngao ngâm ‘Một khi ta biết th́ ta đă . . .’Bài thơ của T.T.KH (đến nay tôi hiểu th́ tôi đă, làm lỡ t́nh duyên cũ mất rồi) nhưng anh ta ngâm chỉ có một câu. Nghe một hai lần đầu th́ như có vẽ đùa cợt. Nhưng càng nghe thêm th́ càng thấy thê lương, đứt ruột làm sao. Đó là cái bí mật lạnh người mà người miền Nam bây giờ mới thấy thấm.
(c̣n tiếp)