THƠ Ngô Minh Hằng : Hẹn một ngày tái ngộ
[CENTER][FONT="Times New Roman"][COLOR="purple"]HẸN ANH MỘT NGÀY TÁI NGỘ
(Tháng Tư Đen, để nhớ về bức tượng THƯƠNGTIẾC . Như một lời tạ ơn, kÍnh dâng các Linh Hồn Tử Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.)[/COLOR][/FONT]
[I][COLOR="blue"][FONT="Times New Roman"][SIZE="4"]Gặp anh trong chiều tiễn biệt
Dáng anh lặng lẽ trầm tư
Anh ơi, anh từ chiến tuyến
Về đây ngồi tự bao giờ ???
Anh từ điạ đầu Bến Hải
Khe Sanh, An Lộc, Hạ Lào ?
Pleiku, Tam Biên, Darlac ?
Đông Hà, Quảng Trị ? Chu Pao ??
Hay từ Cà Mau, Đồng Tháp
Định Tường, Cái Nước, Năm Căn ?
Hoàng Sa ? U Minh ? Rừng Sát ?
Súng rơi giữa cuộc quân hành ?
Anh về từ đâu chăng nữa
Cũng hồn trong mạch non sông
Anh về bao giờ chăng nữa
Cũng thân đẵm máu Lạc Hồng !!!
Tôi biết anh v́ lư tưởng
Hào hùng, chiến trận xông pha
Chẳng mơ công hầu, khanh tướng
Chỉ mong mạnh nước, an nhà !
Anh đi v́ yêu sông núi
Yêu đời Hải, Lục, Không Quân
Mong ngày ba miền vào hội
Mừng nhau quét sạch vô thần
Anh tự bao giờ, trầm lặng
Ngồi đây thương bạn, nhớ rừng ?
Súng nằm ngang đùi, sưởi nắng
Ba lô thiếp ngủ triền lưng !
Mắt anh, ḍng sông suy tưởng
Dưới vành nón sắt, xa xăm
Là anh ??? Anh là pho tượng ???
Cho đời ngưỡng phục ngàn năm !
Cho đời vô cùng thương tiếc
Tinh hoa ṇi giống Lạc Hồng
Tóc vừa xanh màu mây biếc
Mà hồn đă núi, đă sông !
Mà hồn ḥa trong nhịp thở
Biển, rừng, hoa, lá, cỏ, cây
Ơn anh, sơn hà ghi nhớ
Thương anh mắt lệ vơi đầy !
Gặp anh chiều xưa tiễn biệt
Rồi xa, trăm nhánh sông đời
Quê hương, một ngày giặc chiếm
Và anh ngă xuống....Than ơi !!!
Người ta trả thù hèn hạ
Cả ngay bức tượng nữa sao ?
Nghe tin, tôi đau đớn quá!
Thương anh khôn xiết nghẹn ngào !!!
Thế rồi một chiều bụi đỏ
T́m anh, tôi đến chốn xưa
Anh ơi, chỉ c̣n đổ vỡ
Hoang tàn theo với nắng mưa...
Hỡi anh, những hồn Anh Kiệt!
Một đời tận hiến non sông
Hẳn nghe B́nh Than hội kiến
Hẳn nghe trống giục Diên Hồng ???
Hẹn anh một ngày tái ngộ
Là ngày quang phục quê ta
Có anh ngồi trên nền cũ
Có tôi dâng một ṿng hoa.[/SIZE][/FONT][/COLOR][/I][/CENTER]
[COLOR="green"][B][SIZE="5"]
[CENTER][SIZE="4"]Ngô Minh Hằng[/SIZE][/CENTER][/SIZE][/B][/COLOR]
30 Tháng Tư 1975 : Máu Và Nước Mắt
Kể từ giờ phút tên phản tặc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng để dâng Miền Nam Tự Do vào tay của cộng sản Hà Nội; th́ hàng năm cứ đến ngày Quốc Hận 30- 04, là mọi người dân Việt, dù ở quốc nội, hay nơi hải ngoại cũng đều cảm thấy xót đau; bởi tất cả đều không bao giờ quên; và măi măi vẫn nhớ đến một n gày tang thương đă trùm phủ xuống quê hương. Ngày nước Việt Nam Cộng Ḥa rơi vào tay giặc thù cộng sản.
..................................................................................
Từ ngày vượt biển ra hải ngoại cho đến hôm nay, tôi vẫn hằng mong đợi một bài viết thật trung thực và đầy đủ về những cuộc bạo loạn, cũng như những ngày cuối cùng của thành phố Đà Nẵng trước khi mất nước. Song, cho đến giờ phút này tôi vẫn chưa hề thấy, nên tôi, một phụ nữ không biết ǵ về văn chương lại thấp kém về mọi mặt. Nhưng, bởi mấy chục năm qua ḷng tôi vẫn xót đau, khi những h́nh ảnh của những người đă bị chế t oan, trong đó có những bé thơ, cứ hiện về như trách móc bảo tôi hăy lên tiếng.
[B]V́ thế, tôi phải hết sức cố gắng để viết lại những ǵ mà chính tôi đă mắt thấy, tai nghe, những điều mà có rất nhiều người đă biết, nhưng v́ một lẽ nào đó nên tất cả đều im lặng. Họ không muốn hay không dám nói.[/B]
Tôi đă chứng kiến từ ngày 20/03/1975, với từng đoàn người di tản từ các tỉnh Trị-Thiên, Nam-Tín-Ngăi, đ ổ về Đà Nẵng mỗi ngày một đông, họ chỉ mong được lên tàu di tản v́ ở những nơi đó VC đă hoàn toàn kiểm soát, không c̣n ǵ để hy vọng.
Tại Đà Nẵng, trong khi từng đoàn người bồng bế nhau chạy xuống bến Bạch Đằng, th́ từng loạt pháo kích của VC bắn theo nổ chặn đường, làm kẻ chết, người bị thương, ai c̣n sống, bỏ tất cả lại để chạy thoát thân. Nhưng rồi chuyến tầu cuối cùng cũng đă rời bến Bạch Đằng; những người c̣n lại đành quay trở về.
Trên đường phố từng toán người d́u dắt nhau trở lại, sau khi trở về nhà, họ đóng cửa, chỉ nh́n ra đường qua cửa sổ, họ đă sống trong những giờ phút hăi hùng, chờ đợi, không biết những ǵ sẽ xăy ra. Thành phố ngưng mọi sinh hoạt.
............................................................................................
Trong lúc đồng bào trên đường di tản, LLHG đă xuống tận bến Bạch Đằng dùng loa phóng thanh kêu gọi:
« Chúng tôi Lực luợng Ḥa hợp, Ḥa giải thị bộ Đà Nẵng. Trụ sở đặt tại chùa Pháp Lâm ở số 500 đường Ông Ích Khiêm Đà Nẵng, thiết tha kêu gọi đồng bào đừng di tản, hăy ở lại với chính quyền cách mạng ; ngụy quân, ngụy quyền cấp bậc, chức vụ ǵ sẽ được trả nguyên cấp bậc và chức vụ ấy. »
V́ thế, mà ở trại cải tạo T.154, Tiên Phước, Qu ả ng Nam, tôi biết có người không phải sĩ quan mà đă khai là « Trung úy », mục đích để được « trả lại »…cấp bậc cũ! Nhưng không ngờ, rồi sau đó đă phải ở tù như những sĩ quan thật. Và rồi, cấp bậc, chức vụ ǵ th́ phải ở tù theo cấp bậc, chức vụ ấy!!!
.....................................................................................................
" [B][U]Trại Cải Tạo T.154 ":[/U][/B]
Đến đây, tôi xin nói qua về trại cải tạo T.154, là hậu thân của trại cải tạo Đá Trắng.
V́ tôi vốn là dân gốc tại làng Thạnh B́nh, Tiên Phước, Quảng Nam; từ nhà tôi đến nhà cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ cần đi bộ, tôi biết rất rơ về trại này, nơi B ác ruột của t ôi đă bỏ ḿnh tại trại vào năm 1964, nên tôi phải nói rơ về cái tên T.154.
Bởi khi quận Tiên Phước mất vào ngày 13/03/1975, th́ VC đă cấp tốc khởi công phá bỏ trại Đá Trắng vốn ở dưới hầm, để thành lập trại tù mới lớn hơn, từ lúc đầu VC đă bắt thanh niên quận Tiên Phước làm công việc xây dựng bằng nhà tranh vách đất, đến ngày 15/04/1975, V iệt cộng cho « khánh thành » và trại Đá Trắng chính thức đổi tên thành "Trại cải tạo T.154", để rồi các vị ai đă vào đấy, th́ ít có vị nào ra trại trước muời năm, có vị đă bỏ ḿnh tại trại v́ bị hành hạ đến bệnh tật không được điều trị, có vị bị xử bắn, bị bỏ đói chết trong nhà biệt giam.
Sau khi đưa tất cả các vị quân cán chính Việt Nam Cộng Ḥa đă tŕnh diện tại « chùa » Pháp Lâm vào đây, VC lại bắt các vị tù trong trại tự xây nhà tù mới, mái lợp ngói, nền lát gạch.
Trại chính là Trại 1, bên nam gồm có 12 (mười hai) nhà, mỗi nhà có bốn pḥng, mỗi pḥng có hai dăy sạp gỗ dài song song và một sạp chiếc, mỗi sạp chứa được trên dưới 20 ( hai mươi) người. Tất cả các pḥng, các cánh cửa đều có gài một thanh sắt dài có gắn khóa sắt, để mỗi tối sau một ngày lao động, mọi người tù phải vào pḥng để một công an gọi là « Cán bộ trực trại » điểm danh xong rồi khóa cửa lại.
Nhưng chưa đủ mà c̣n có một nhà Biệt Giam, trong nhà nầy có những thanh sắt gài hai chiếc cùm sắt xuyên qua Tường gạch kiên cố, để cùm hai chân người tù, pḥng chỉ bốn mét vuông, không có cửa sổ, chỉ có một lỗ thông hơi h́nh tṛn đường kính khoảng 08 cm (tám phân), bên ngoài là cánh cửa sắt có gài một thanh sắt có khóa sắt. Trong trại c̣n có nhà cấp duỡng ( nhà bếp) một trạm xá.
Ngoài ra, quanh trại VC c̣n xây thêm các phân trại như các trại: Trại Thôn Năm, Thôn Tư, Na Son, Nà Thao, Ḷ gạch, Nhà chăn nuôi, Nhà máy ly tâm sản xuất đường (chỉ phân phối cho công an, c̣n tù cải tạo th́ chỉ được nh́n mà thôi).
Đầu năm 1979, v́ đánh nhau với Tàu nên VC chuẩn bị đưa một số vị tù ra Bắc, đă phải ngưng lại, thay vào đó VC đă lập thêm nhà biệt giam 02.79 (Đồng Mộ). Rồi thay v́ đưa ra Bắc; vào đêm 03-05-1979 , các vị này đă bị trói dính chặt vào nhau. Sau đó, các vị đă bị công an vũ trang dao kề cổ, súng kề lưng, đưa vào nhà biệt giam 02.79 (Đồng Mộ) trong một đêm khuya tối Trời. Trong số này có bốn vị tu sĩ đó là quư ngài:
- Linh mục Đặng Đ́nh Canh, hiện nay quản nhiệm giáo xứ Thanh Bồ, Đà Nẵng,
- Linh mục Vũ Dần, hiện nay quản nhiệm giáo xứ Phú Thượng, Đà Nẵng,
- Linh mục Nguyễn Đ́nh Ánh.
Riêng Linh Mục Tống Kiên Hùng sau khi ra tù ngài trở về giáo xứ Tam Ṭa,
Nhưng công an QN-ĐN đă trục xuất ngài vào miền Nam, rồi ngài sang Hoa Kỳ, hiện nay ngài đă vào ḍng tu kín tại Hoa Kỳ, và Mục sư Dương Đ́nh Nguyện, hiện cũng đă tiếp tục hầu việc Chúa ở Hoa Kỳ.
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Nguồn : Chinhnghiaviet
Mot Lan Di - Nguyet Anh< hinh anh Saigon 1975>
[video=youtube;TsDPZQRirTo]http://www.youtube.com/watch?v=TsDPZQRirTo[/video]
Bản Tin Tức Cuối Cùng Của Đài Phát Thanh Sàig̣n Tháng 4-1975
[video=youtube;yLBXLkaDDRk]http://www.youtube.com/watch?v=yLBXLkaDDRk&feature=related[/video]
Đôi ḍng về ngày 30-4/ Vân Trang
Kính thưa Quư Vị
Thắm thóat đă 36 năm rồi, gần tới ngày 30 tháng tư, năm nào cũng vậy; tôi thấy nỗi buồn tự dâng đến, không thể nào nguôi ngoai, khiên tôi liên tưởng lại những sự việc diễn ra: như trong thời gian rất gần hiện tại.
Tôi không sao quên đuợc những ngày, từ 15/3 đến 22/3 trên đoạn đường dài hơn 120 cây số của Tỉnh Lộ 7( Tỉnh Lộ Máu). Con đuờng dài từ Phú Bổn ( Cheo Reo) đến Tuy Ḥa ( Phú Yên) Ngoài ra, chúng tôi phải di chuyển trong rừng sâu để tránh địch, con đường rừng có thể dài hơn 150 cây số. Những cảnh tượng mà chúng tôi nh́n tận mắt, mỗi khi ra đường t́m thức ăn, chỉ là một phần ít, mà người cộng sản Bắc Việt đă tàn sát người dân di tản trên Tỉnh Lộ Máu.
Từ khi tôi xuất bản tập thơ ( Nỗi Ḷng Viễn Xứ) năm 2000 tôi cứ ngỡ; rồi sẽ phôi pha đi.
Nhưng không ngờ, những h́nh ảnh đó vẫn c̣n đậm nét trong trí nhớ. Nhất là những thăm cảnh:
Gần cầu Le Bắc :
Nh́n đâu cũng cảnh thương tâm,
Lời thơ khó thể tả chân rơ ràng.
Trên cao quà quạ kêu vang,
Ở dưới người chết ngỗn ngang bốc mùi.
Nh́n đâu cũng thấy lạnh người,
Nh́n đâu cũng thấy ră rời tay chân,
Chắc đây là cặp vợ chồng,
Người th́ banh ruột người không thấy đầu.
C̣n kia là bác nhà giàu
Chết c̣n nắm chặt hồ bao đầy vàng
Kia là dứa trẻ bên đàng
Nằm bên xác mẹ ôm ḍng sửa khô.
C̣n đây cô gái loă lồ,
Văng ngang khúc ngực ruột nhô gan ḷi.
Mănh quần bung rách tă tơi.
Sao anh tàn ác hơn loài hổ mang.
Tôi nghe trong dạ xốn xang ,
Như kim chích mũi, mắt tràn lệ tuôn.
Thôi, viết nhiều thêm buồn, chỉ sợ làm lây cho quư vị.
Để thư gỉăn tinh thần, xin quư vị nghe nhạc phẩm .
Lời Nhạc Buồn của Vân Trang viết cho HO.
Do Trang Thanh Truc tŕnh bày. Vân Trang đệm Keyboard
Rất mong quư vị được thư giản.
Vân Trang
<iframe title="YouTube video player" width="480" height="390" src="http://www.youtube.com/embed/pcH_N4CAmKo" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Trận Chiến Đấu Bi Hùng của Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu Tháng 4 1975
[CENTER][IMG]http://i53.tinypic.com/2s7dfgp.jpg[/IMG][/CENTER]
Từ bên kia bờ sông Bến Hải, vết xích chiến xa T-54 và các sư đoàn Bắc Việt đă xoá nát văn kiện Hiệp Định Ba Lê 1973 tiến dần về Nam.
Như là một định mệnh oan nghiệt, cả nước bị ém chặt và bức tử theo ván bài chiến lược quốc tế được quyết định từ ngoài cương thổ Việt Nam. Hoa Kỳ làm ngơ, thế giới cúi mặt trong lúc lănh thổ miền Nam lần lượt lọt vào tay quân đội chính quy Bắc Việt. Quảng Trị mất, kế đến là Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Cao Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết… Và rồi đầu tháng Tư 1975, mặc dầu bị Sư Đoàn 18 Bộ Binh của tướng Lê Minh Đảo cầm chân quyết liệt tại Long Khánh suốt 12 ngày đêm, Bắc quân lại tiếp tục tràn về ven biên ngoại ô Sài G̣n.
Quân ta cứ rút, cứ rút. Vũng Tàu, những ngày cuối tháng tư năm 1975, một trong những phần thân thể c̣n lại của Tổ Quốc, cũng đang lên cơn sốt hốt hoảng và náo động. Ḍng người di tản, cả lính lẫn dân, đổ về Vũng Tàu từ cả hai mặt, đường bộ cũng như đường biển. Vũng Tàu chênh vênh bên bờ nước, tuyệt vọng, cùng đường. Ngày 26 tháng 4, quân đội miền Bắc tấn chiếm Biên Hoà, Bà Rịa, sau đó, cầu Cỏ May nối liền Bà Rịa và Vũng Tàu bị giật sập. Vũng Tàu co ro trong thế cô lập, chờ chết.
Trường Thiếu Sinh Quân, mặc dù toạ lạc ngay cửa ngơ của thị trấn, nhưng bị ngăn cách bởi những vách tường đá kiên cố bao quanh, những giao động âu lo, tuyệt vọng từ một Vũng Tàu hỗn loạn đă không lọt được vào trường.
Các Thiếu Sinh Quân vẫn sinh hoạt đều đặn như mọi ngày. Thiếu Sinh Quân liên lớp 12 (lớp người viết), đang trong thời gian học thi tốt nghiệp, vẫn cắm cúi miệt mài với bài vở. Trong thời gian này, phần lớn các Thiếu Sinh Quân lớp nhỏ cư ngụ ở các vùng Sài G̣n, các tỉnh vùng 3 và vùng 4 đă được nhà trường cho về với gia đ́nh.
Các Thiếu Sinh Quân ở vùng 1 và vùng 2 phải ở lại trường do t́nh h́nh chiến sự rối ren hay đă mất vào tay Bắc quân. Không khí nhà trường v́ thế càng tăng vẻ yên tĩnh, nặng nề. Cái nặng nề và yên tĩnh đó trở nên ngột ngạt và căng thẳng dần khi chúng tôi nhận ra những nét lo âu, bức xúc trên gương mặt của các cán bộ, nhân viên cơ hữu của trường.
Ngày 28 tháng 4, chúng tôi được lệnh tập họp sau bữa ăn chiều. Trung Tá Ngô Văn Dzoanh, Chỉ huy trưởng, thông báo t́nh h́nh khẩn cấp, ban hành lệnh giới nghiêm và tuyên bố:
- Các em không có ǵ phải rối loạn, lo âu. Nhà trường đă có kế hoạch di tản!
Mặc dù c̣n trẻ, nhưng chúng tôi đă cảm thức cái nguy cơ, cái bất thường, tuyệt vọng của t́nh h́nh đất nước trong những ngày qua, nên dù đă được chỉ huy trưởng trấn an, chúng tôi cũng đă phải trải qua một đêm mất ngủ. Tổ quốc, tương lai, gia đ́nh, bè bạn và ngôi trường thân yêu này ngày mai sẽ ra sao?
Chúng tôi trằn trọc đến sáng, khi mặt trời lên, trên gương mặt của đám Thiếu Sinh Quân chúng tôi, ai cũng hiện lên những nét lo âu, sợ sệt của đám gà con đang bối rối chui rúc dưới lông cánh gà mẹ trong lúc diều hâu đang lờ lững lượn trên ṿm trời .
Khung trời rộng dường như nhỏ dần lại trên khoảng không gian trường Thiếu Sinh Quân sáng ngày 29 tháng Tư, cùng lúc những lo âu của anh em lại trương lớn dần và căng thẳng thêm. Bỗng chợt âm thanh của đạn trọng pháo từ đâu xé gió rít qua không gian… và Ầm! Ầm! Tiếng nổ ù tai của những viên đạn rớt vào chân núi đài viba ngay đằng sau lưng trường.
Đại Úy Lê Viết Đắc, cán bộ tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn Hùng Vương, liên lớp 12, rút súng ra khỏi vỏ, chạy ngược xuôi ra lệnh cho các Thiếu Sinh Quân nằm sát xuống đất để tránh miểng đạn. Trong bối cảnh của tiếng những mảnh đất đá rơi xào xạc trộn lẫn âm thanh vang dội của đạn trọng pháo, ông như một con gà mẹ đang dáo dác bảo vệ đàn con.
Không biết mục tiêu của những viên trọng pháo đó là ai, là trường Thiếu Sinh Quân hay là đơn vị đồn trú tại đài viba gần trường, nhưng âm thanh của tiếng đạn nổ và cảnh núp đạn lần đầu tiên kể từ ngày vào trường đă gieo cho những đầu óc c̣n non nớt chỉ biết ăn, học và chơi của chúng tôi cái cảm giác kỳ lạ, hoang mang, lo sợ về sự sống và sự chết.
Chúng tôi vẫn nằm yên. Địch pháo thêm vài đợt, đạn rơi bên ngoài trường, sau đó rồi im.
( C̣n tiếp ...)
Trận Chiến Đấu Bi Hùng Của Trường Thiếu Sinh Quân ...( tiếp theo và hết )
Tôi bật dậy, nhảy ngay ra ban công nh́n về hướng đại lộ độc đạo dẫn vào cổng trường. Trời đang mưa lâm râm, c̣n mờ mờ tối, cảnh vật rất yên tĩnh. Tôi chẳng nh́n thấy ǵ và nghĩ cậu bé lay ḿnh dậy chắc v́ hoảng sợ nên tưởng tượng, trông gà hoá cuốc.
Sắp sửa quay lưng trở về chỗ nằm th́ tôi chợt nghe tiếng oang oang của Hạ Sĩ Hoành, các anh em đặt biệt hiệu vui là Hoành heo. Anh Hoành là hạ sĩ quan cán bộ hỏa đầu vụ. Tôi ngạc nhiên với sự hiện diện của Hạ Sĩ Hoành, chẳng biết Anh nhập cuộc từ bao giờ. Hạ sĩ Hoành bảo chúng tôi:
- Tụi bay ở đó đi! Chắc là lính ḿnh đó ! Để tao ra coi thử!
Cùng đi với hạ sĩ Hoành là Nguyễn Văn Thành liên lớp 12 và một Thiếu Sinh Quân nữa tôi không biết tên.
Đến lúc đó tôi mới phát hiện có môt nhóm người lố nhố ở tít đằng xa đang tiến dần về phía chúng tôi. Tôi đứng trên lầu căng mắt theo dơi và dặn anh em chuẩn bị sẵn sàng cho mọi bất trắc.
Đột nhiên, tất cả chúng tôi đều nghe tiếng hạ sĩ Hoành la lớn:
- Việệt Cộộộng!
Tiếng hô vừa dứt th́ lập tức tất cả hỏa lực đặt sẵn ở lầu 1 pḥng quân số, pḥng chỉ huy, các khu vực tháp canh nhất tề khai hoả yểm trợ cho đồng đội chạy trở vào trường.
Bắc quân chắc không thể nào ngờ họ lại được đón tiếp một cách “nồng hậu” như vậy.
Suốt khoảng thời gian gần 15 phút, hoả lực từ trong trường dập ra thật dữ dội. Bắc quân bị tấn công bất ngờ, chui rúc t́m chỗ tránh đạn, chỉ nghe rời rạc vài tiếng AK bắn trả.
Có lẽ họ nghĩ trường Thiếu Sinh Quân đă di tản và bỏ trống. Những phút giây khai hoả dữ dội ở cổng trường đă làm cho tất cả lực lượng chiến đấu c̣n lại của trường tỉnh táo và sẵn sàng ở vị trí ứng phó 5/5.
Bên ngoài trường, hẳn là đồng bào đă choàng thức và ngạc nhiên, lo âu, nh́n về hướng trường Thiếu Sinh Quân. Một buổi sáng họ không bao giờ quên.
Trong trường, anh em di chuyển nhộn nhịp hẳn lên. Tôi nh́n thấy Lâm A Sáng (hiện đang định cư tại Seatle, Washington ) và Phạm Ngọc Tŕnh (đă chết ở Việt Nam) chạy lúp xúp sang ban quân số, đứa vác súng, đứa vác đạn. Đến ban quân số, tầng trên đă chật ních những xạ thủ, Sáng và Tŕnh phải nằm thủ ở bậc cầu thang. Thoắt một cái khẩu trung liên Bar của Sáng và Tŕnh đă sẵn sàng tham gia cuộc chiến.
Súng vẫn c̣n nổ gịn giă th́ Hoàng Văn Mạ đang thủ khẩu đại liên trên lầu gào lớn:
- Ê, tụi bay! Bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạn nghe!
Tiếng gào của Mạ, như thể một mệnh lệnh, khiến cho tất cả các khẩu súng đều ngừng khạc lửa. Khói súng mịt mù. Mùi thuốc súng nồng nặc.
Tai tôi lùng bùng v́ tiếng đạn tưởng rách màng nhĩ. Xa xa ngoài cổng trường, các bóng Bắc quân biến đi đâu mất. Bên trong sân trường và các ổ chiến đấu th́ hết sức tĩnh mịch, cái yên tĩnh rùng rợn của một hứa hẹn đổ máu thật dễ sợ mà lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy.
Tôi đoán Bắc quân thế nào cũng sẽ tấn công để chiếm trường. Tôi cũng biết quyết tâm của những tay súng Thiếu Sinh Quân liều lĩnh. Chúng tôi lúc này như đă ở vào thế cận chân tường, chiến đấu trong tâm trạng “điếc không sợ súng” và ư nghĩ “không c̣n ǵ để mất!”
Bên ngoài, trời đă bắt đầu rạng sáng. Trấn tĩnh đội h́nh, Bắc quân bắt đầu tấn công chiếm trường. Họ cho một toán quân tiến qua khách sạn đối diện trường ở bên kia đường và chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm giảm lợi thế của chúng tôi khai hoả từ trên cao. Một mặt, họ đưa hỏa lực mạnh như súng cối, súng phóng lựu, B-40 để công phá chúng tôi từ mặt đất, v́ với vị trí pḥng thủ kiên cố, hoả lực nhẹ của họ không có tác dụng uy hiếp được chúng tôi.
Cuộc chạm súng đợt hai khởi diễn với quả đạn pháo của Bắc quân rớt vào giữa sân banh sau lưng chúng tôi. Lần đầu tiên bị pháo giữa sân trường, lẽ ra phải nằm xuống tránh miểng đạn, một số các em hoảng sợ chạy tán loạn t́m chỗ che lưng, cũng may là không ai bị trúng thương.
Tiếp theo là một phát B-40 thổi tung cổng trường, một em Thiếu Sinh Quân, có lẽ thuộc liên lớp 9 hoặc 10, chạy ra kéo cửa đóng lại. Vừa đóng xong, em chạy qua nấp bên bức tường đá phía pḥng chỉ huy. Tất cả sự việc xảy ra trong ṿng không đầy một phút, em vừa kịp lách ḿnh vào thành đá là một quả B-40 thứ hai nốI tiếp một lần nữa mở toang cổng trường. Giỡn mặt với tử thần như vậy cũng tạm đủ. Từ giờ phút đó chẳng ai “thèm” chạy ra đóng cửa nữa. Nh́n rơ mặt, đánh nhau mới “sướng!”
Mặc dầu có những lỗi lầm ngu ngơ của lần đầu tiên trong đời đối mặt với kẻ thù như vừa kể, cuộc chạm súng đợt hai đă diễn ra thật dữ dội. Đối phó với địch quân trên tầng lầu khách sạn, Phú Văn Đại cầm khẩu M-79 bắn trực xạ vào các ô cửa pḥng khách sạn. Chẳng hiểu hắn luyện tập khi nào mà xử dụng vũ khí rất chuyên nghiệp.
Bắc quân bị khốn đốn rất nhiều với anh chàng này. Đối phó với toán quân trên b́nh địa là các khẩu đại liên phối hợp với các khẩu trung liên, tiểu liên thay phiên bọc lót cho nhau. Những tràng đạn gịn tan đủ âm độ được tô điểm bởi những phát nổ cầm chừng của các khẩu garant nhịp nhàng ăn ư, lâu lâu lại có tiếng dậm đậm đà của cây phóng lựu M2. Tất cả các âm thanh quyện lại như một giàn nhạc giao hưởng điêu luyện và biến thành một lướI đạn chằng chịt phủ xuống đầu đốI phương.
Với quân số hơn một tiểu đoàn chính quy Bắc Việt, đối phương dồn hoả lực cố gắng tạo kẽ hở để vượt lên tiến đến gần chúng tôi. Nhưng với vị trí thuận lợi và những tay súng gan ĺ không hề nao núng trước làn đạn kẻ thù, các em nhỏ Thiếu Sinh Quân đă buộc Bắc quân phải bó tay, dậm chân tại chỗ suốt hơn một giờ chiến đấu.
Đến khoảng 7 giờ sáng, từ bên pḥng chỉ huy trưởng, tôi chạy băng qua pḥng quân số để theo dơi việc tiếp đạn cho các khẩu đại liên đặt tại đó. Qua hai cánh cổng mở toang, tôi thấy một bộ đội cộng sản đang đặt khẩu phóng lựu trên vai nhắm thẳng ngay tôi. Tôi bật ngay khẩu carbine trên tay hướng về hắn bóp c̣. Cùng lúc, viên đạn từ ṇng súng của hắn cũng xẹt ánh sáng xanh bay về phía tôi. Chệch qua mặt tôi khoảng hai gang tay, viên đạn trúng đài biểu tượng Nhân Trí Dũng phá tan một mảnh đá lớn.
Ngay lúc đó, tôi cảm thấy hoa mắt, chân và vai tê rần. Khuỵu xuống vớI chân phải bị trúng thương, tôi liếc nh́n xuống chiếc áo sơ mi đang mặc loang lổ đầy máu tươi. Một thoáng tích tắc ngạc nhiên không hiểu tại sao áo ḿnh đầy những máu mà không cảm thấy một chút đau đớn ǵ th́ tôi ngă ra ngất xỉu. Trong lúc đó Lâm A Sáng cũng bị một phát đạn vào chân. Lê Văn Tánh (c̣n ở tại Việt Nam) chạy lại băng bó cho Sáng, một lúc sau cũng lănh một viên đạn vào đùi.
Thế là Phạm Ngọc Tŕnh cơng Lâm A Sáng, Nguyễn Văn Minh cơng tôi chạy qua khu Văn hoá. Nghe kể lại, hai Thiếu Sinh Quân đă dùng tấm drape giường làm vơng khiêng tôi đang mê man ra đến bệnh viện Vũng Tàu cách trường vài cây số.
Các anh em Thiếu Sinh Quân ở lại vẫn tiếp tục chiến đấu măi cho đến gần 10 giờ sáng. Khi ấy đạn dược đă gần cạn, các bạn mới quyết định gọi loa điều đ́nh ngừng bắn và treo cờ trắng đầu hàng. Một sự đầu hàng trong danh dự v́ các em vẫn đường hoàng làm lễ hạ Quốc kỳ và thay vào đó bằng tấm drape trắng dong lên cho phép Bắc quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi trường yêu dấu.
Bắc quân hẳn phải bàng hoàng khi thấy những đối thủ kiêu hùng của họ chỉ là các em Thiếu Sinh Quân tuổi trung b́nh 15, 16 mà thôi. Họ uất ức, nhưng chắc hẳn cũng phải thán phục các tác giả của 6 xác bộ đội đang nằm phơi nắng ngoài cổng trường.
Theo lời thuật lại của Lâm A Sáng, th́ trong hơn 100 Thiếu Sinh Quân tham gia trận đánh, đa số đă leo rào sau trường trốn thoát trước khi Bắc quân xông vào cổng trường, chỉ c̣n vài chục em nhỏ ở lại với các anh lớn bị thương không thể đào thoát. Tất cả bị bắt giữ đem nhốt qua trại gia binh Cô Giang bên cạnh trường.
TrạI Gia Binh Cô Giang vốn là ngơ ngách quen thuộc của các Thiếu Sinh Quân. Kết quả là tất cả đă chui rào biến mất, khiêng luôn cả Lê Văn Tánh bị thương nặng ở đùi theo. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở Trại Cô Giang chẳng khác nào thả hổ về rừng.
Trở lại phần tôi, tỉnh dậy trong bệnh viện Vũng Tàu th́ trời đă tối. Chân và vai đau đớn v́ miểng đạn, mặt th́ sưng vù không há miệng được do vết thương ở bên má. Cho đến bây giờ, hơn 27 năm sau, ngồi viết đến đoạn này tôi vẫn không ngăn được niềm xúc động và tự hào cho t́nh yêu thương lẫn nhau hiếm có của những con người Thiếu Sinh Quân.
Bệnh viện đầy ngập những người bị thương. Nhân viên y tế không đủ để chăm sóc. Tôi bị bỏ nằm trên nền đất lạnh cả đêm chẳng có y tá nào ngó ngàng tới. Chỉ có một em Thiếu Sinh Quân lớp 9 mà măi đến 27 năm sau, t́nh cờ do một duyên may tôi mới được biết tên, là Nguyễn Kim Hùng (hiện cư ngụ tại Oklahoma), đă ở lại chăm sóc cho tôi. Em thức suốt đêm cạy miệng đổ sữa cho tôi cầm sức và quanh quẩn bên tôi để giúp đỡ.
Đến sáng hôm sau th́ một đám bạn cùng lớp gồm Thịnh nhóc, Thành râu (hiện định cư tại Minnesota), Thiện huế và vài anh em nữa tôi không nhớ tên đến bệnh viện đón tôi đi. Các bạn rất vất vả thay phiên nhau cơng tôi đi măi đến khi trời chập choạng tối th́ chúng tôi mới về đến Bà Rịa. Nghỉ ở Bà Rịa một đêm, sáng hôm sau, chúng tôi lại d́u dắt nhau t́m phương tiện để trở về thành phố.
Lịch sử đă sang trang. Hơn một phần tư thế kỷ đă trôi qua. Trường Thiếu Sinh Quân ngày nay đă trở thành trụ sở của một công ty dầu khí ở Vũng Tàu. Tuy nhiên, trong ḷng những người dân xứ biển, h́nh ảnh hào hùng của các Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử măi măi sẽ không bao giờ phai nhạt.
[B]Tổ quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu Sinh Quân vũ dũng kiêu hùng đă viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho quân đội.[/B]
HẾT
CTSQ Nguyễn Anh Dũng và CTSQ Lâm A Sán
(Edited by Bắc Phong Sài G̣n/ K23 Thủ đức)
[CENTER][IMG]http://i54.tinypic.com/2dtb2s.jpg[/IMG]
[IMG]http://i52.tinypic.com/xcrvgl.jpg[/IMG][/CENTER]