Kính tặng những người anh "Thằng Cu" ngaỳ đó cuả miền Nam nắng ấm.
[CENTER]Có Những Người Anh Hợp Ca Phi Đoàn Thiên Phong 110
[video=youtube;eLOGpgOIdgc]http://www.youtube.com/watch?v=eLOGpgOIdgc&feature=related[/video][/CENTER]
Với lòng tri ân mãi mãi về các anh.
[CENTER]
[SIZE=4][B]"ANH LÀ NGƯỜI TÔI THƯƠNG MẾN MUÔN ĐỜI!"[/B][/SIZE][/CENTER]
Những Người Lính Cũ - Đọc Để Thương Để Nhớ ...
[B]
[SIZE=2]Tất cả tên của những người lính VNCH và ba câu chuyện trong bài đều là tên thật, chuyện thật.[/SIZE][/B]
Trong bài thơ "Dưới chân đồi Chu Pao" của nhà thơ Lâm Hảo Dũng, viết về trận đánh trên Quốc Lộ 14 dẫn vào Kontum trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, có hai câu:
[B]"Chu Pao ai oán hờn trong gió
Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường"[/B]
Chỉ hai câu thơ này thôi cũng đủ nói lên sự tổn thất to lớn của những người lính cũ thi hành sứ mạng bảo quốc an dân.
Những người lính cũ? Họ là ai?
[CENTER][IMG]http://i44.tinypic.com/fxwa2w.gif[/IMG][/CENTER]
Họ là Lưu Trọng Kiệt, Lê Hằng Minh, Nguyễn Đ́nh Bảo, Lương Quế Vượng, Mă Thành Cương, Lê Văn Khoắng, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Viết Cần, Hoàng Ưng, Cao Hoàng Tuấn, Nguyễn Bá Ṭng, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Mạnh Dũng, Dương Hữu Trí, Mai Gia Thược... đă nằm xuống trên những chiến trường miền Nam hay trong các trại tù cải tạo điểm đầy trên quê hương sau ngày tàn cuộc chiến. Họ là những người lính cho nổ lựu đạn tự sát, người sĩ quan Cảnh Sát đă tuẩn tiết dưới chân tượng Thủy Quân Lục Chiến, là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai... Họ là Nguyễn Hữu Luyện, Lê Tuấn Ngô, Nguyễn Trung Chính, Nguyễn Tấn Sang, Huỳnh Văn Của, Trần Văn Nam, Nguyễn Văn Cầu... ngày nay đă xa cố quốc nhưng ḷng vẫn luôn nhớ về các đồng đội ngày xưa. Họ chỉ là một con số rất nhỏ, trong số bao nhiêu người lính Việt Nam Cộng Ḥa, đă từng hy sinh trọn thời thanh niên chiến đấu để bảo vệ tự do, để cho người dân miền Nam được hưởng 21 năm tự do ngắn ngủi.
Bao nhiêu người lính VNCH đă nằm xuống để đổi lấy từng hơi thở tự do cho người dân. Họ và đồng đội đă hứng chịu bao gian nan khốn khổ cho hậu phương được những ngày b́nh yên. Mưa gió tầm tă miền tuyến lửa Đông Hà, nắng cháy rát mặt nơi Cao Nguyên, đất śnh đen vùng Đồng Tháp dính nặng đôi giày sô không làm cho người lính sờn ḷng. Họ vẫn luôn giữ vững tay súng bảo vệ từng phần đất tự do. Họ là những người lính Không Quân, Hải Quân. Họ là những người lính mũ đỏ, mũ xanh, mũ nâu...
Họ là những người lính "bùn lầy c̣n pha sắc áo xanh" của Sư Đoàn 1, Sư Đoàn 5, Sư Đoàn 18, Sư Đoàn 21, Sư Đoàn 22, Sư Đoàn 25... Họ là những người lính Thiết Giáp, Pháo Binh, Truyền Tin, Quân Cảnh, Biệt Kích, Nha Kỹ Thuật, Biệt Đội Người Nhái, Công Binh, Nữ Quân Nhân, Quân Y... Họ là những người lính dân quê của Địa Phương Quân, Nghĩa Quân. C̣n nhiều nữa, họ c̣n là những thương phế binh Nguyễn Văn Nhạn, Bùi Văn Bon... với tấm thân tàn phế, vẫn c̣n lê lết chuỗi ngày tàn trong một tương lai đầy ảm đạm.
Tướng Douglas MacArthur đă nói: "Old soldiers never die, they just fade away." Nhưng riêng với chúng ta, người lính Việt Nam Cộng Ḥa không bao giờ bị phai nhạt và không thể bị phai nhạt. V́ họ là cha, là mẹ, là anh, là chị, là em, là bạn bè, là người láng giềng cùng xóm. Họ chính là chúng ta.
V́ vậy Nhớ Người Lính Cũ là điều chúng ta đă làm và phải làm hằng ngày, không phải chỉ qua một vài bài viết. Số báo nhỏ nhoi này chỉ là một nhắc nhở đến mọi người về nguồn cội của chúng ta, những người đang chịu ơn các vị anh hùng đó.
*****
Người sĩ quan Quân Lực VNCH đó là một người lính dân quê, từng là Tiểu đoàn trưởng của một tiểu đoàn xuất sắc nhất của Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Trong một trận đánh vào đầu năm 1968 ông bị trúng thương nặng nhưng vẫn cố gắng chỉ huy binh sĩ cho đến khi tàn trận. Vết thương thập tử nhất sanh trên ngực buộc ông phải nằm trong pḥng Hồi Sinh gần một tuần lễ. Sau một thời gian dưỡng thương ông được đưa trở lại nắm đơn vị cũ. Vết thương vẫn không bao giờ hoàn toàn lành lặn, thỉnh thoảng vẫn rỉ máu, và nhiều lần ông phải dùng thuốc cầm máu. Ông đă có thể từ chối thượng lệnh nhưng tinh thần trách nhiệm của người lính VNCH với đồng đội đă buộc ông chấp nhận không một lời kêu ca. Một thời gian sau ông được thăng cấp và chuyển đi nhận nhiệm vụ mới. Ngày ông rời đơn vị, trong buổi lễ bàn giao, nhiều người lính đă rơi nước mắt từ giă vị chỉ huy cũ. Ông là lính tác chiến trọn đời binh nghiệp nhưng ông phải hứng chịu nhiều bất công, và ông đă cắn răng không than van chỉ v́ "c̣n nhiều người lính khổ hơn ḿnh."
Được giải ngũ vào đầu năm 1975, một người mà trọn đời binh nghiệp là lính tác chiến, tưởng đă có thể sống một đời yên ổn bên gia đ́nh sau bao năm chinh chiến th́ biến cố 30/4/1975 ập đến. Ông được mời di tản nhưng chỉ có chổ cho một ḿnh ông và ông đă từ chối v́ không thể bỏ lại vợ con.
Sau khi tŕnh diện học tập cải tạo ông bị đưa ra miền Bắc như nhiều sĩ quan khác của Quân Lực VNCH. Trước khi đưa mọi người lên xe lửa ra Bắc, bọn người thắng trận đă ra lệnh tịch thu tất cả những ǵ họ xem là có thể giúp tù cải tạo trong việc đào thoát, trốn trại. Thuốc men của ông mang theo để dùng cho vết thương cũ bị tịch thu dù đă có lư do chánh đáng.
Trong trại tại vùng Hoàng Liên Sơn, người tù cải tạo phải chịu những hành hạ lao lực. Mỗi ngày người tù phải kéo gổ từ dưới sông về trại trong những ngày rét buốc. Sức khoẻ của ông ngày càng suy yếu v́ lao lực quá độ. Một ngày kia ông vấp ngă, bị thân cây đè và vết thương cũ vỡ ra.
Ông xin ban quản giáo trại cho lại số thuốc men đă bị tịch thu. Họ từ chối. Sau nhiều lần nài nỉ của ông và các bạn cùng trại, ông được phát cho vài viên APC (một loại aspirin của quân đội cũ). Vài ngày sau ông chết đi. Thi hài ông được bó bằng tấm chăn văi dù đă theo ông suốt cuộc đời chinh chiến và đem chôn ở một ngọn đồi gần trại.
Một điều tàn nhẫn cuối cùng, gia đ́nh của ông không được thông báo về cái chết của ông, và giấy báo tử được Trưởng trại kư 18 tháng sau ngày ông mất.
Mười sáu năm sau ngày ông mất, di cốt của ông đă được gia đ́nh đem về an táng tại quê nhà.
C̣n tiếp...
Chuyện Con Tàu Trường Xuân ( 1975)
Có con tầu nằm trên bến đỗ...
Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hăng thương thuyền hàng hải lớn nhất là Vishipcoline của chủ nhân Trần đ́nh Trường. Hiện ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel ( Carter) tại Nữu Ước.
Một trong các thương thuyền của hăng là tàu Trường Xuân,
[CENTER][IMG]http://i39.tinypic.com/34srojr.jpg[/IMG][/CENTER]
Vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Định, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đă có 30 năm kinh nghiệm hàng hải.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đă xuống hàng hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt.
[COLOR="#B22222"] Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với cộng sản.[/COLOR]
Ông t́m đường ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong dùng được Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn.
Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào cái tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới 29 tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh. [COLOR="#B22222"]Tàu Trường Xuân khởi hành 12 giờ trưa 30/4/75.[/COLOR]
Lúc đó thủy thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ có vỏn vẹn 5 người. Có lẽ ông cần chừng 300 hay 400 hành khách, nhưng chưa có người nào.
Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975.
[B]Saigon hấp hối[/B]
Tại Saigon mặt trận Long Khánh đă tan vỡ, tất că 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ c̣n miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đă chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đă có mặt tại các vị trí quân sự.
Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ đang bay di tản những phi vụ cuối cùng. Nội các mới của Việt Nam Cộng Ḥa họp bàn về việc bỏ súng và bàn giao. Đài phát thanh Saigon chuẩn bị đọc những lời tuyên bố đau thương của tổng thống Dương văn Minh gửi người anh em phía bên kia , xin mời vào nói chuyện. Thủ tướng Vũ văn Mẫu kêu gọi người anh em đồng minh Hoa Kỳ phía bên này, xin vui ḷng ra đi.
Giữa mùa hè chói chang, radio của quân đội Hoa Kỳ chơi bài Tuyết Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc trái gió trở trời. Đài quân đội Việt Nam Cộng Ḥa hát nhạc quân hành trong tuyệt vọng.
Đó là Saigon của đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân bụng đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu bốc cháy bên kho đạn Thành Tuy Hạ.
C̣n tiếp...