HỒN VIỆT TRONG NGÔN NGỮ VIỆT
[COLOR="#4B0082"][SIZE=4]HỒN VIỆT TRONG NGÔN NGỮ VIỆT[/SIZE][/COLOR]
[SIZE=2]Quách vĩnh Niên[/SIZE]
Linh hồn Việt được t́m thấy và cảm nhận qua thơ, nhạc, văn, ca giao, tục ngữ, vè, và các h́nh thức nghệ thuật, khoa học, triết học …trong đóngôn ngữ là phương tiện chuyển tải. Trong quá tŕnh h́nh thành, ngôn ngữ được hoàn thiện từ thế hệ nầy qua thế hệ khác . Khi xă hội càng tiến bộ th́ từ ngữ càng phong phú nhằm đáp ứng nhu cầu diễn đạt trong mọi lănh vực, v́ vậy sự vay mượn từ ngữ ngoại quốc dưới mọi h́nh thức và Việt hoá từ ngữ vay mượn là điều tựn hiên nhưng tất cả đều được đặt căn bản không đi ngược tinh thần Việt, nếu không sẽ bị tự nhiên đào thải.
Khi người Việt tiếp cận văn minh phương Tây, nhất là Pháp, những từ cu li, ô tô … được phiên âm thành từ Việt. Trong khoa học, triết học chúng ta t́m thấy những từ ỏ dạng phiên âm rất nhiều và được chấp nhận sử dụng tự nhiên, đây là công lao đóng góp của trí thức qua mọi thời đại trong môi trường tự do không bị o ép dưới bất kỳ h́nh thức nào. Từ ngữ nào không thích hợp sẽ bị lăng quên trong quần chúng và vắng bóng trên văn đàn, điều nầy chỉ xảy ra trong môi trường tự do (dưới thời thực dân Pháp đô hộ người Việt vẫn có được quyền tự do nầy). Những từ như Cảng thơm (Hương cảng), yên sĩ phi lư thuần (hồn thơ) … đă bị đào thải.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, bên cạnh tổng thống có ban cố vấn Hán văn đứng đầu là một vi thâm nho mục đích đặt ra từ mới khi cần. Ngày nay bên cạnh những từ thuần Việt như đi chơi, ăn mặc, bạn bè … chúng ta c̣n t́m thấy hầu hết từ Hán Việt trong sách vở và ngôn ngữ thường đàm nhưng đó hoàn toàn là ngôn ngữ Việt và tuyệt đối không có hơi hướng ngoại lai nào cả.
[IMG]http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/images/stories/tieng%20viet%20men%20yeu.jpg[/IMG]
Nhưng khi CSVN thống trị Miền Bắc Việt nam th́ mọi việc trở nên tồi tệ.
Trong khi Miền Nam tiếp tục phát triển văn hoá Việt theo tinh thần ngàn đời của tiền nhân th́ Miền Bắc XHCN áp dụng triệt để triết học Mác-Lê, xoá bỏ cái mà chúng gọi là “tàn dư văn hoá đồi truỵ”. CSVN đă bóp méo lịch sử, cải sửa ngôn từ, buộc các văn nhân, thi, nhạc sĩ tiền chiến lầm theo bọn chúng phải bóp chết những đứa con tinh thần của ḿnh trước khi được chấp nhận đứng vào hàng ngũ và sáng tác theo chủ trương của đảng c̣n bằng không th́ thân tàn ma dại. Ngôn ngữ của Việt cộng (VC) là ngôn ngữ của con tố cha, vợ tố chồng, ngôn ngữ của hận thù, của giết chóc, của đấu tranh giai cấp, của mạt sát tôn giáo, của luồn cúi quan thầy Nga Hoa.Trong khi Liên sô và Trung cộng dùng học thuyết Mác Lê làm phương tiện thống trị thế giới th́ Hồ chí Minh và bè lũ xem đó là điều thiêng liêng phải tôn thờ. Mặt khác CSVN âm mưu đánh lừa trí thức và toàn dân Việt cũng như dư luận thế giới bằng những giả chiêu bảo tồn văn hoá dân tộc và khốn nạn thay chúng đă thành công trong quá khứ và di hại đến ngày hôm nay. Con tắc kè VC đă đổi màu không biết bao nhiêu lần và lần nào cũng có không ít người lầm. Tại sao vậy? Đây là điều mỗi người trong chúng ta cần phải suy gẫm.
CSVN cai trị dân tộc Việt bằng bạo lực kết hợp với dối trá nên tự thân đầy mâu thuẫn, thấp kém và bế tắc. Cứ nh́n vào mớ ngôn từ đang lưu dùng trong nước từ ngôn ngữ thường đàm đến văn học cũng như lănh vực y khoa , khoa học … th́ rơ. Tia sáng mặt trời có bảy màu thấy được là đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím. Bên ngoài độ dài sóng của tia màu đỏ mắt thường không thấy được gọi là tia hồng ngoại. Bên ngoài tia màu tím (tử) mắt thường không thấy được gọi là tia tử ngoại. Vậy mà họ đặt tên tia tử ngoại là tia cực tím. Cực tím là quá tím, quá tím là vẫn c̣n tím tức mắt thường c̣n thấy được! Nói đến đây chúng ta liên tưởng đến chữ cực. Khi dùng chữ cực hoặc cực kỳ th́ phải thêm tĩnh từ phía sau người nghe mới hiểu được, ví dụ cực kỳ hay, cực kỳ thú vị …mở miệng ra là … cực? ! Ngôn ngữ XHCN là thứ ngôn ngữ tuỳ tiện, lai căn, và nghèo nàn. Sở dĩ có t́nh trạng nầy là v́ lănh đạo chóp bu (dốt) nói lời nào, dùng từ ǵ th́ cấp dưới lập lại rập khuôn không sai một chữ, một mặt sợ vạ lây, một mặt tâng bốc và thể hiện sự trung thành tuyệt đối, trong đó dân đen lại càng rập khuôn tệ hại hơn nữa.Trí thức XHCN thuộc lớp người trong nước và ngoại quốc (nhất là ở Pháp) lầm nghe theo Hồ chí Minh khi chạm thực tế th́ đă quá muộn (vào tay mỗ vỗ không ra), vừa hận ḿnh vừa hổ thẹn và trước hết là v́ mạng sống đành phải nhắm mắt làm theo, nói theo. Hai mươi mốt năm XHCN miền Bắc và mấy chục năm cho cả nước sau năm 75 người dân Việt nam đă tiêm nhiễm cách hành xử như vậy nên không thấy sai, không biết mắc cỡ và tệ hại hơn họ c̣n thích những cái sai quấy đó nữa! Ngôn ngữ có phong phú mới có khả năng chuyển đạt tư tưởng chính xác, lời văn mới trong sáng. Chỉ có một chữ liên hệ thôi mà họ dùng để thay thế cho chữ quan hệ, liên quan, thăm viếng… chữ hiện đại thay thế cho chữ tối tân, tân tiến, thời đại, mới mẻ… chữ đột xuất thay thế cho chữ bất ngờ, đột ngột, đột biến … chữ khẩn trương thay thế cho chữ nhanh lên, gấp rút … chữ sự cố thay cho chữ biến cố, sự kiện, diễn biến bất ngờ … phát hiện thay thế cho chữ khám phá , t́m ra, phát giác … cái ǵ cũng bức xúc, cái ǵ cũng nhạy cảm (?), hồ hởi (?), ấn tượng (?), vô tư (?), bồi dưỡng(?) … và khủng khiếp hơn nữa là chữ xưởng đẻ th́ quả thật cái “ưu việt” của XHCN không c̣n biết nói sao!
Tiêu cực không có nghĩa là phủ định, chống đối mà có nghĩa là thiếu xây dựng, ỡm ờ, không mạnh dạn, không quyết liệt. Chống cộng quyết liệt không có nghĩa là tiêu cực mà là chống cộng tích cực. Chống cộng ỡm ờ là hành động tiêu cực.
Chữ văn hoá bao gồm văn học, triết học, nghệ thuật, phong tục, tập quán cũng như tất cả mọi sinh hoạt tinh thần và thể chất của người dân trong suốt chuỗi dài lịch sử của dân tộc. V́ vậy văn hoá không có nghĩa là văn học và càng không thể nào có nghĩa là phép lịch sự. Vậy mà một hành động khiếm nhă họ gọi là thiếu văn hoá. Đao to búa lớn quá (!). Phản ảnh chứ không nên là phản ánh (khó nghe quá), phản ảnh tức phản chiếu h́nh ảnh (toàn bộ vấn đề), c̣n phản ánh có nghĩa là phản chiếu ánh sáng (không nói lên toàn bộ sự việc).
Chữ football tiếng Anh có nghĩa là túc cầu, bóng tṛn, Ở Mỹ và Úc gọi là môn thể thao bóng bầu dục. Để phân biệt từ football mang nghĩa hai môn thể thao khác nhau, một bên chỉ dùng chân, một bên dùng cả tay lẫn chân, có nghĩa là môn nào cũng dùng chân cả nên dùng chữ bóng đá là không ổn bằng từ bóng tṛn (để phân biệt bóng bầu dục).
Mở đầu bản di chúc, Hồ chí Minh đă trích dẫn câu thơ của Đỗ Phủ (712-770) nhân sinh thất thập cổ lai hy. Vậy là cả nước nhao nhao lên “nhân sinh thất thập cổ lai hy” mà không hiểu rằng câu nói của ông Đỗ Phủ cách nay đă mười ba thế kỷ rồi! Ngày nay thiên hạ sống đến chín mươi hay hơn nữa là chuyện b́nh thường. Vừa tếu vừa lếu láo, cái lối hiếp dâm văn từ như vậy xảy ra nhan nhản trong cái xă hội “ưu việt” XHCN từ trước đến nay cũng không lấy ǵ làm lạ khi đích thực Hồ chí Minh đă thoát xác thành Trần dân Tiên để hiếp dâm chính bản thân ḿnh, một việclàm chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Đành rằng ngôn từ nào cũng là ngôn từ Việt cả nhưng phải tránh ngôn từ luộm thuộm, ngôn từ chói tai, hoăc tối nghĩa. Thay v́ thuỷ quân lục chiến lại cải thành lính thủy đánh bộ, máy bay trực thăng thành máy bay lên thẳng, hoả tiển thành tên lửa nghe nó ngô nghê làm sao ấy. Xuất cảng chứ không phải xuất khẩu (nghe muốn ói). Chữ xuất cảng đi một chuỗi với các từ hải cảng, giang cảng, phi cảng. Ngôn từ phải có cái hồn của nó cho nên việc dùng chữ chính xác th́ văn mới tải được đạo. Văn là phương tiện, tải đạo là mục tiêu, phương tiện có tuyệt vời th́ư của đạo mới được tải trọn vẹn.
Đến đây chúng ta sang thưởng lăm nét đẹp tuyệt vời của hai bài thơ, một là bài “Khóc Bằng Phi” của vua Tự Đức.
[I] Ới thị Bằng ơi! Đă mất rồi!
Ới t́nh, ới nghĩa, ới duyên ơi!
Mưa hè nắng chái oanh ăn nói.
Sớm ngơ trưa sân liễu đứng ngồi.
Đập cổ kính ra t́m lấy bóng.
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Mối t́nh muốn dứt càng thêm bận.
Măi măi theo hoài cứ chẳng thôi.[/I]
Và bài thơ tặng vợ của Hồ Dzếnh.
[I] Ḿnh vừa là chị là em.
Tấm ḷng người mẹ trái tim bạn đời.
Mai nầy tới phút chia đôi.
Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?
Xót ḿnh đă lắm thương đau.
Tôi xin làm kẻ đi sau đỡ ḿnh.
Cuộc đời đâu phải phù sinh.
Nước non chan chứa nghĩa t́nh ḿnh ơi.[/I]
Hàngvạn những viên kim cương như trên trong nền văn học Việt đă bị CSVN xoá bỏ. Một Hồ Dzếnh không chịu khai tử những đứa con tinh thần theo lệnh CSVN đành phải chấp nhận cuộc đời công nhân lam lũ. Một Phạm Duy nếu không sớm chạy về hàng ngũ Quốc Gia là môi trường tự do để phát triển tài năng th́ cuộc đời ông ta cũng chỉ là một tên văn nô xoàng xĩnh, cớ sao chừng ấy tuổi mà chưa biết sự đời c̣n nhi nhô lắm điều chói tai?! …
Lịch sử Việt đă trải qua biết bao thăng trầm nhưng ngôn ngữ Việt không những được bảo tồn mà c̣n phát triển theo từng thế hệ và không gặp phải bất cứ một sức cản nào, cho đến khi Hồ chí Minh tự nguyện làm tên tiên phong áp đặt chủ thuyết ngoại lai vong bản lên đầu dân tộc Việt th́ nền văn học miền Bắc rơi vào t́nh trạng hổ lốn, bế tắc và thô tục thuần vật chất (duy vật) và vắng bóng tinh thần (vô thần). Sau năm 75, CSVN tiếp tục huỷ diệt nền văn học Việt trên một nửa nước c̣n lại.Vậy là CSVN đă hoàn tất cái “sứ mạng thiêng liêng” của tên Việt gian trên đất Việt đối với ông tổ Mác Lê của chúng. Người dân miền Nam bị xích hoá nặng nề bằngbạo lực nên tiêm nhiễm cung cách CSVN hồi nào không hay cho đến khi hệ thống XHCN thế giới bị tan tác từng mảnh, CSVN phải chùn bước (con tắc kè VC một lầnnữa lại đổi màu), cái di căn nặng nề đó người dân cả nước (nói chung) vẫn chưatẩy xoá (và rất khó tẩy xoá) mặc dù văn học Việt hải ngoại từ lâu dưới mọi h́nh thức đă thổi luồng sinh khí về nước.
Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà những tác phẩm văn, thơ, nhạc tiền chiến được tiếp tục phổ biến v́ đó là sự kế tục của văn học Việt mặc dù một vài tác giả v́ lư donào đó đă tự nguyện làm văn nô cho CSVN, những người nầy đă tự ư chối bỏ chính ḿnh là chuyện cá nhân và họ phải chịu trách nhiệm ít nhất đối với chính bản thân họ.
Ngày nay CSVN cho lưu hành một số hạn chế tác phẩm thơ nhạc VNCH chỉ v́ trước sức ép của thời đại chúng đành phải nhượng bộ một chút để xoa dịu ḷng dân. Nhưng chừng nào chế độ CSVN độc tài độc đảng c̣n đó th́ chẳng khác nào lưỡi gươm D’Amocle`s vẫn c̣n treo lơ lửng trên đỉnh đầu dân tộc Việt.
Cộng đồng Việt hải ngoại ở Hoa kỳ, Úc, Canada, Âu châu đă có hệ thống trường dạy tiếng Việt khá hoàn chỉnh, sách vở,báo chí, truyền thanh và truyền h́nh rộng khắp, thêm vào đó là sinh hoạt mạng bằng tiếng Việt phong phú đến độ CSVN không cách nào ngăn cản nổi. Ư thức bảo tồn ngôn ngữ Việt ở hải ngoại ngày nay rất cao đă dội vào trong nước có hiệu quả, tất cả những thành tựu đó là do công lao của mọi người Việt hải ngoại, đăc biệt là các nhân sĩ, trí thức, văn thi sĩ, các vị thâm nho và các nhà ngôn ngữ học. Mong sao quư vị có được sự đồng thuận (dưới một danh xưng nào đó) nhằm thống nhất từ ngữ, nhất là từ mới trong cộng đồng Việt trên khắp thế giới, đây là một mặt trận rất quan trọng hiện nay. Nhân loại tiến bộ không ngừng đ̣i hỏi phải có từ ngữ mới nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy và truyền bá kiến thức. Trong nước thiếu khả năng làm việc nầy, từ ngữ mới của họđặt ra mang tính tuỳ tiện, vô nghĩa và chói tai đến buồn cười mặc dầu ban, ngành của họ nghe rất kêu, nhưng tất cả đều lệ thuộc lệnh trên mà trên th́ dốt nát,lại tham ô vơ vét của dân và rối ḅng bong v́ đă trót buôn dân, bán nước và cúi luồn giặt Tàu.
Ngày nay các bạn trẻ trong nước đă mạnh dạn phản kháng chế độ, chấp nhận bị truy bứcvà tù đày, những bản văn lên án chế độ trên trang mạng rất trong sáng rạch ṛiđầy tính nhân bản. Văn của các bạn đă thoát ra khỏi cái đám ngôn ngữ lầy lộiXHCN, quả thật các bạn là những đoá hoa sen, xứng đáng được ngưỡng mộ và noi gương. Nh́n vào đó, là người ở hải ngoại, chúng ta biết phải làm ǵ, không lẽ chúng tac̣n vô t́nh dùng từ VC, c̣n coi truyền h́nh VC, c̣n xem văn nghệ do ca sĩ trongnước ra tŕnh diễn? Nói đến đây chợt nhớ hai câu thơ cổ:
[I] Thương nữ bất tri vong quốc hận.
Cách gian du xướng hậu đ́nh hoa.[/I]
Ôi nhục thay bọn gái đĩ (hiểu theo nghĩa rộng) không biết ǵ hận mất nước mà cứ nhởnnhơ vô ư thức.
Quáchvĩnh Niên
Ai là tác giả của bài thơ "Khóc Bằng Phi"?
[B]
Hỏi:[/B] Bài thơ Khóc Bằng Phi thật ra là của ai? Có phải là vua Tự Đức làm để khóc một bà quư phi nào đó không?
[I](Nguyễn Tiến Cảnh, P. Cầu Ông Lănh, Q.2, Saigon)[/I]
[B]Mai Tiểu Sinh trả lời:[/B] Xin chép bài thơ đó, như sau:
[I]Ới Thị Bằng ơi đă mất rồi
Ới t́nh ới nghĩa ới duyên ơi
Mưa hè nắng chái oanh ăn nói
Sớm ngơ trưa sân liễu đứng ngồi
Đập cổ kính ra t́m lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Mối t́nh muốn dứt càng thêm bận
Măi măi theo hoài cứ chẳng thôi[/I]
(Văn học Việt Nam, trang 142, Sài G̣n – Trung tâm học liệu Bộ Giáo Dục VNCH xuất bản, không đề năm).
Theo nhà phê b́nh Đặng Tiến (Pháp) th́ bài Khóc Bằng Phi không phải của Tự Đức mà là của Nguyễn Gia Thiều: “Ngô Tất Tố đă chứng minh điều này từ năm 1941, trong cuốn Thi văn B́nh chú, Lê Mạc – Tây Sơn...”. Ngoài ra, dường như Trần Danh Án (1754-1794) có dịch bài thơ này ra chữ Hán”.
“Sỡ dĩ có sự gán ghép là v́ (dường như) Tự Đức khi nhuận sắc có sửa lại hai chữ mảnh gương thành tàn y, nên Dương Quảng Hàm mới nhầm ra thơ Tự Đức và trong chương tŕnh văn học đă ghi là của Dực Tông rồi người sau cứ truyền tụng như thế. Ngoài Ngô Tất Tố, các chuyên gia thơ cung đ́nh triều Nguyễn, như Phan Văn Dật, Bửu Cầm đều nói không phải của vua, v́ trong thư khố, không t́m thấy vết tích ǵ của bài thơ này và tên họ một bà phi nào tương tự; hơn nữa giọng thơ trữ t́nh bay bướm này khó có thể là giọng Tự Đức. Sinh thời, học giả Hoàng Xuân Hăn cũng nói như vậy”. Trên đây là ư kiến của Đặng Tiến (Diễn đàn, số 151, Paris).
Xin nói thêm: Tôi đă đọc Ngự chế thi tập của Tự Đức, và thấy thơ ông khá b́nh thường, nếu không muốn nói là tầm thường. Ông không thể làm nên một kiệt tác như vậy. C̣n Nguyễn Gia Thiều là một thiên tài, đại thi gia thơ chữ Nôm với Cung oán ngâm khúc; với lép nhép vài hàng tỏi... Thế mà cũng tang thương… mới có giọng thơ tài hoa, trang nhă mà chân t́nh ấy. Nhất là hai câu: “Đập cổ kính ra t́m lấy bóng/ Xếp tàn y lại để dành hơi” th́ thật là thiên cổ danh cú vậy.
Cũng nên nói thêm là, Dương Quảng Hàm, trong sách đă dẫn, phần chú giải bài thơ trên, có đoạn: “Cứ theo sách Nam phong giải trào th́ hai câu thơ này đă thấy trong một bài thơ của Ôn Như Hầu (tức Nguyễn Gia Thiều): “Đập mảnh gương ra t́m lấy bóng / Xếp manh áo lại để dành hơi”. Trong hai câu của vua Dực Tông, chỉ khác mấy chữ “mảnh gương” đổi làm “cổ kính” và “manh áo” đổi làm “tàn y” (nt, tr.143).
Nam phong giải trào là những bài giải nghĩa ca dao Việt Nam bằng chữ Hán của Trần Danh Án (1754-1794) và Ngô Đ́nh Thái (giải nguyên năm 1819).
[url=http://www.honvietquochoc.com.vn/bai-viet/3141-ai-la-tac-gia-cua-bai-thokhoc-bang-phi.aspx][COLOR="#0000FF"]source[/COLOR][/url]
Những áng thơ liên quan bài thơ "Khóc Bằng Phi"
[I]
Bài xướng[/I]:
[B]BẰNG PHI TUYỆT BÚT[/B]
Hạ bút thơ đề ngấn lệ vương
Trần gian âm cảnh rẽ đôi đường
Sao rơi Ngự Uyển ĺa kim cải
Trăng rụng Tràng Tiền đoạn lửa hương
Tiếng trống Vân Lâu rền điện vắng
Hồi chuông Linh Mụ điểm canh trường
Lao xao ngọn gió buồn hiu hắt
Một kiếp hoa tàn mặc nắng sương
Một kiếp hoa tàn mặc nắng sương
T́m nhau trong giấc mộng đêm trường
Mây đen phủ kín trời non Ngự
Sóng bạc bao trùm nước bến Hương
Tuyệt bút đôi vần trao thánh thượng
Tâm thư một bức gởi song đường
Xưa nay định số thường cay nghiệt
Để khách nhan hồng lắm nợ vương
[B]Kim Bạch Kim[/B]
[I]Bài họa[/I]:
[B]KHÓC BẰNG PHI[/B]
Chuông chùa Diệu đế giục sầu vương
Bóng ngả chiều rơi lá trải đường
Ảm đạm mưa luồn cây đỉnh Ngự
Âm thầm sóng gợn nước sông Hương
Nhân gian mấy kẻ tài miên viễn
Phù thế nào ai sắc cửu trường
Khanh hỡi khanh về nơi cửu hạ
Cung vàng hiu quạnh mặc phong sương
Cung vàng hiu quạnh mặc phong sương
Giấc mộng trùng hoan mộng huyễn trường
"Cổ kính đập ra t́m lấy bóng
Tàn y xếp lại để dành hương"
Quăng nghiên ném bút sầu tri kỷ
Bỏ phú ĺa thơ khóc bạn đường
Ngự uyển tiêu điều trơ nắng gió
Ai người lau ngấn lệ quân vương
[B]HTL[/B]
[url=http://kimlong9999.blogspot.com/2009/06/tu-uc-khoc-bang-phi.html][COLOR="#0000FF"]source[/COLOR][/url]
Những áng thơ liên quan bài thơ "Khóc Bằng Phi"
[I]
Bài xướng[/I]:
[B]Khóc Thị Bằng[/B]
Ới Thị Bằng ơi đă mất rồi
Ới t́nh ới nghĩa ới duyên ơi
Mưa hè nắng chái oanh ăn nói
Sớm ngơ trưa sân liễu đứng ngồi
Đập cổ kính ra t́m lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Mối t́nh muốn dứt càng thêm bận
Măi măi theo hoài cứ chẳng thôi
[B]Nguyễn Gia Thiều[/B]
[I]Bài họa 1[/I]:
[B]Khóc Thị Bằng[/B]
Cánh cửa nhà ai khép kín rồi
C̣n chờ chi nữa bạn ḷng ơi
Mây vương nẽo vắng trông cùng ngóng
Nguyệt rẽ pḥng đơn đứng lại ngồi
Mấy độ Thu tàn như khắt tiếng
Bao lần Hạ tới luống ṃn hơi
Xuân xanh đă úa màu năm tháng
Cái nợ ân t́nh khổ quá thôi
[B]Thanh Minh[/B]
Apr 11, 2007
[I]Bài hoạ 2[/I]:
[B]Khóc Bằng Phi[/B]
Mới đó mà nay vắng dạng rồi
Cung vàng quạnh quẽ ái khanh ơi
Trao lời vĩnh biệt châu buồn đổ
Thốt tiếng từ ly trẫm biếng ngồi
Núi Ngự nao nao giờ nhắm mắt
Sông Hương bịn rịn phút tàn hơi
Bằng phi đă bỏ về thiên cổ
Bút tủi nghiên sầu nhớ măi thôi
[B]Bích Trân[/B]
Apr 11, 2007
[I]Bài họa [/I]3:
[B]Khóc Bằng Phi[/B]
Vĩnh viễn từ đây cách biệt rồi
Thương nàng chỉ gọi cố nhân ơi
Vườn hoa ngự uyển chim không hót
Ghế lệ chi viên trẫm chẳng ngồi
Chớp chớp đôi mi gần kiệt sức
Ṛng ṛng ngấn lệ sắp cùn hơi
Chuông chùa Diệu đế buồn đưa tiễn
Cạn ư thơ sầu bẻ bút thôi
[B]Tuyết Trắng[/B]
Apr 13, 2007
[I]Bài họa 4[/I]:
[B]Khóc Bằng Phi[/B]
Ngàn thu vĩnh biệt ái khanh rồi
Mấp máy môi mà gọi chẳng ơi
Thảng thốt đêm buồn cơn gió rít
Lâm ly lệ thảm bóng ta ngồi
Thia thia lẻ bạn hoài thương chậu
Chồng vợ ly t́nh măi nhớ hơi
Âm cảnh dương gian đành rẽ lối
T́m trong giấc mộng gặp nhau thôi
[B]Bảo Sơn[/B]
Apr 13, 2007
Bài thơ liên quan đến nhan đề "Khóc Bằng Phi"
[B]
KHÓC BẰNG CƠ[/B]
Ới Thị Bằng ơi đă mất rồi
Ới t́nh ới nghĩa ới duyên ơi
Mưa hè nắng chái oanh ăn nói
Sớm ngơ trưa sân liễu đứng ngồi
Đập cổ kính ra t́m lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Mối t́nh muốn dứt càng thêm bận
Măi măi theo hoài cứ chẳng thôi
[B]Nguyễn Gia Thiều[/B]
(1741-1798)
Bài thơ trữ t́nh và nổi tiếng này đă là đề tài tranh luận của giới văn nhân thi sĩ.
Có người cho rằng đây là hai câu thơ (5-6) trong bài khóc Thị Bằng của vua Tự Đức (1829-1883) để thương nhớ người cung phi c̣n trẻ đẹp nhưng đă sớm hồng nhan bạc mệnh, nhan đề: "Khóc Bằng Phi".
Giả thuyết khác th́ tin rằng đây là bài thơ t́nh tha thiết nhất trong văn chương Việt Nam của đại thi hào Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều. Xét về thời gian th́ bài thơ Khóc Bằng Cơ ra đời đă lâu cả nửa thế kỷ.
Tạm xếp lại hai giả thuyết này, thử nh́n về quan niệm t́nh yêu dưới thời phong kiến của người đă viết nên tuyệt phẩm Cung Oán Ngân Khúc của nền văn học Việt Nam - Ôn Như Hầu.
[I]Đập cổ kính ra tím lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi[/I]
Thời Nho giáo với quan niệm tam ṭng tứ đức, t́nh yêu của người đàn bà phải đi sau các nghi lễ và tập tục. Họ phải sinh con đẻ cái để nối dơi tông đường như một bổn phận. Với quan niệm thời bấy giờ, t́nh yêu chỉ hiện thực trong giấc mộng, trong tiểu thuyết hoặc hóa hiện nơi miền tiên cảnh! Thân phận của người phụ nữ trong t́nh yêu rất mờ nhạt.
Tác phẩm Cung Oán Ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều đă duy nhất thấu tỏ thân phận hẩm hiu, đơn chiếc và buồn thảm của người phụ nữ trong cung cấm, là khúc ngâm ai oán của người đàn bà!
Hai câu thơ này là sự kết hợp yêu đương gắn liền giữa quá khứ, hiện tại, vị lai của t́nh yêu. Họ mất nhau trong cái c̣n. Đập hết vật thể đi t́m cái phi h́nh tướng, chỉ c̣n lại hương thơm trên đường về cố lư. Vũ trụ bổng có nơi chốn dù đó là nơi chốn chẳng định h́nh.
Nguyễn Gia Thiều có gặp lại Bằng Cơ không? T́nh yêu là sự ḥa nhập của nửa này với nửa kia. T́nh yêu không đ̣i hỏi, không điều kiện hay yêu sách. T́nh yêu thong dong như mây trắng, núi xanh, biển sóng, như hạt mầm nẩy trong ḷng đất, lặng căm nhưng căng đầy sức sống, như ḷng trống không nhưng lưu giữ những âm vang. Tất cả là một sự h́nh thành kết hợp. Hành tŕnh t́nh yêu chưa kết thúc khi hai người chưa thành một trong nhau. Nguyễn Gia Thiều đập vỡ cổ kính, ông hít một hơi dài vô tận để lấy hết những ǵ c̣n sót lại trong chiếc áo cũ và trong tấm gương, cho sự ḥa nhập của t́nh yêu thôi phân tán. Để không ai c̣n sỡ hữu được dù là bóng hay mùi hương, một biểu tượng của t́nh yêu vô cùng và bất diệt.
Nhà thơ Thi Vũ đă nhận định:
Khóc Bằng Cơ của Ôn Như Hầu là một bài thơ t́nh khóc người ái thiếp ray rứt và đắm đuối nhất trong thơ Việt Nam. Bài thơ lời ít, ư đầy, là chân trời man mác về giới hạn của phân ly sinh tử. Ư thơ tuyệt bích, h́nh ảnh thơ siêu thực, nguồn thơ xuống tận đáy tâm can góp mặt với nguồn cội của t́nh yêu trọn vẹn.
[I]Bài thơ này nổi tiếng nhờ hai câu năm, sáu. Hai câu ấy quả hay. T́nh nghĩa vợ chồng ít thấy trong thơ, lại càng ít thấy xuất hiện đậm đà đến mức này trong thơ.[/I]
[url=http://www.duytancircle.com/viewtopic.php?f=14&t=3095&sid=eed7b72c482049c2fb009cc3f7fa72f0][COLOR="#0000FF"]source[/COLOR][/url]