Thái độ của Mỹ sau trận Hoàng Sa 1974
[IMG]http://cjoint.com/11oc/AJhspEVuzlA_hq10.JPG[/IMG]
Một số tư liệu giải mật gần đây của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho người ta biết rơ hơn về thái độ lưng chừng của Mỹ trước tranh chấp quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đầu thập niên 1970.
Loạt sách Quan hệ Ngoại giao của Hoa Kỳ là hồ sơ chính thức về hoạt động ngoại giao của chính phủ Mỹ bắt đầu từ 1952, tập hợp các văn bản gốc như biên bản cuộc họp, điện tín, thư từ.
Các sử gia của Bộ Ngoại giao Mỹ đă hoàn tất 25 cuốn về chính quyền Kennedy, 34 cuốn về chính quyền Johnson, trong khi ư định làm 54 tập về thời kỳ Nixon và Ford (1969-1976) vẫn c̣n dở dang.
Biên bản cuộc họp ngày 25/01/1974, một tuần sau trận hải chiến Hoàng Sa (17 - 19 tháng Giêng), tường thuật cuộc họp về Đông Dương do Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger chủ tŕ.
'Tránh xa'
Đô đốc Thomas H. Moorer, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân, báo cáo: "Chúng ta đă tránh xa vấn đề."
Ngoại trưởng Kissinger hỏi lại: "Chúng ta chưa bao giờ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của họ [Nam Việt Nam]?"
Đô đốc Moorer trả lời: "Toàn vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa và các đảo khác có cùng vấn đề - đó là lănh thổ đang tranh chấp. Chúng tôi đă ra lệnh tránh khỏi vùng đó."
Ông Kissinger hỏi "Ai khởi đầu trận chiến ở Hoàng Sa?"
Đô đốc Thomas H. Moorer mô tả: "Một đội tuần tra của Nam Việt Nam trong khu vực phát hiện một số tàu Trung Quốc tiến về các đảo; họ tiến đến và đưa khoảng 75 người lên đảo Duncan (Quang Ḥa). Đó là một trong các đảo phía nam của nhóm Nguyệt Thiềm.
"Họ phải đối đầu với hai đại đội Trung Quốc. Phía Nam Việt Nam phải rút sang các đảo gần đó.
"Bốn tàu Nam Việt Nam và khoảng 11 tàu Trung Quốc sau đó có trận hải chiến trong khi quân Nam Việt Nam rút lui."
Ngoại trưởng Mỹ hỏi tiếp: "Phản ứng của Bắc Việt trước toàn bộ vụ việc là thế nào?"
William Colby, Giám đốc t́nh báo CIA, nói: "Họ bỏ qua, nói rằng nó nằm dưới Vĩ tuyến 17 và v́ thế không có ảnh hưởng đến họ. Nói chung, họ không đưa ra lập trường, không theo bên nào."
Ông William Smyser, từ Hội đồng An ninh Quốc gia, nói thêm: "Nó đặt họ vào t́nh thế tế nhị. Họ không nói ǵ cho đến khi đă xong chuyện, và rồi chỉ nói họ lên án việc dùng vũ lực."
Cuộc bàn luận tiếp tục với tŕnh tự như sau:
"Ngoại trưởng Kissinger: Tôi biết họ nói ǵ rồi, nhưng họ thực sự cảm thấy thế nào?
Đô đốc Moorer: Tôi nghĩ họ lo lắng.
Ông Colby: Bắc Việt có thể muốn có mỏ dầu tại đó.
Ông Clements [Thứ trưởng Quốc pḥng]: Đừng quá mơ mộng về khả năng có dầu tại các đảo đó. Đó vẫn là chuyện trên trời. Hiện chẳng có ǵ ở đấy cả, chỉ là tương lai thôi. Hiện nay dầu hỏa ở đó không khả thi. Chỉ là tiềm năng.
Đô đốc Moorer: Người Pháp nắm giữ các đảo trong thập niên 1930 cho đến khi Nhật chiếm trong Thế chiến. Năm 1955, người Pháp từ bỏ chủ quyền các đảo và Nhật đă làm như thế năm 1951. Nam Việt Nam và Trung Cộng kể từ đó cùng nhận chủ quyền. Philippines có tuyên bố yếu ớt, nhưng chỉ là trên giấy."
Sau đó, Đô đốc Moorer xác nhận lại với Henry Kissinger: "Chỉ thị của tôi là tránh xa khỏi toàn bộ khu vực."
Cũng cần nhắc lại, trong một cuộc gặp trước đó, ngày 23/1/1974 với ông Han Hsu, quyền trưởng phái đoàn liên lạc của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa tại Washington, Ngoại trưởng Kissinger nói: "Hoa Kỳ không có lập trường trong việc ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Nam Việt Nam tại các đảo này."
Bảo vệ Philippines hay không?
Trong một cuộc họp ngày 31/1/1974 của Bộ Ngoại giao, Ngoại trưởng Kissinger khi đó được thông báo: "Không có dấu hiệu Trung Quốc định tiến về Trường Sa. Dẫu vậy, có sự lo ngại đáng kể từ phía Nhật, Philippines và đặc biệt là Nam Việt Nam, mà theo tin báo chí th́ hôm nay đă gửi đoàn 200 người ra chiếm một số ḥn đảo lâu nay không ai ở trong khu vực Trường Sa."
"Đài Loan đă chiếm ít nhất một đảo và Trung Quốc cũng vậy."
Trong bối cảnh này, Philippines đă hỏi Mỹ liệu Hiệp Ước An ninh Mỹ - Philippines có được dùng nếu quân Philippines kéo ra Trường Sa và bị Trung Quốc tấn công.
Các quan chức Mỹ có mặt trong cuộc họp đồng ư rằng không có câu trả lời rơ rệt và họ muốn để ngỏ sự mơ hồ trong câu trả lời cho Philippines.
Một người trong cuộc họp, ông Hummel, nói: "Tạp âm xung quanh các tuyên bố của chúng ta về những ḥn đảo này hẳn đă đủ cho người Philippines hiểu rằng chúng ta không có ư định hay chúng ta không muốn."
Ngoại trưởng Kissinger kết luận: "Câu trả lời của chúng ta là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ."
Chỉ cho đến gần đây, hồi tháng Bảy 2011, Thượng Nghị sĩ Jim Webb, chủ tịch Ủy ban Đông Á và Thái B́nh Dương của Thượng viện Mỹ, đă kêu gọi Bộ Ngoại giao Mỹ giải thích công khai về hiệp ước an ninh Mỹ - Philippines trong tranh chấp Biển Đông.
Ông Jim Webb khi đó nói: "Sự minh bạch của chúng ta trong vấn đề này là vô cùng quan trọng với đồng minh, Philippines và cho toàn vùng Đông Nam Á."
Tường thuật lại trận hải chiến tại Hoàng Sa 19-1-1974 giữa quân đội Việt Nam cộng ḥa và Hải quân Trung Quốc
Lời mở đầu: Bài viết này tổng hợp từ các bài đă viết về Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trong trận hải chiến Hoàng Sa, và các tài liệu đă được t́m thấy gần đây trong đó có tài liệu do gia đ́nh cố HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cung cấp.
Tác giả hy vọng sẽ tŕnh bày một cách đầy đủ những h́nh ảnh hào hùng và bi thương của các chiến sĩ Hải Quân VNCH trong trận hải chiến lịch sử chống lại bọn giặc xâm lăng Trung Cộng.
Thềm Sơn Hà
Hơn hai tháng biệt phái công tác cho Vùng I Duyên Hải, Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 trở về Đà Nẵng sau chuyến tuần dương cuối cùng để bàn giao lại vùng trách nhiệm cho HQ11 (Hộ tống hạm Chí Linh). Tất cả nhân viên chiến hạm đều vui mừng khi nghĩ đến lần trở về Sài G̣n sắp đến sẽ trùng hợp vào ngày Tết Nguyên Đán. Họ sẽ có dịp gần gũi gia đ́nh trong những giờ phút thiêng liêng của năm mới và cũng theo lời Hạm Phó (HP) Nguyễn Thành Trí nói với vợ trước khi lên đường công tác th́ chiến hạm sẽ chuẩn bị đi đại kỳ tại Guam sau khi trở về Sài G̣n (1). Ngoài ra với đồng lương mới lănh, họ đi bờ ra phố Đà Nẵng mua sắm hàng hóa đặc biệt của địa phương để mang về làm quà Xuân cho gia đ́nh và cũng là dịp những chàng lính thủy độc thân ra phố hưởng thụ những giây phút thoải mái sau những ngày dài lênh đênh trên trên biển.
Bất ngờ chiều 17-1-1974 chiến hạm nhận lịnh khẩn cấp cùng với Tuần Dương Hạm Trần B́nh Trọng HQ5 lên đường ra công tác Hoàng Sa (HS).
Hạm Trưởng (HT) ra lịnh kéo c̣i nhiệm sở vận chuyển. Một vài nhân viên trở về lúc sợi dây cuối cùng vừa tháo vội vàng nhảy xuống tàu, có người bị hụt chân rớt xuống nước phải thả phao vớt lên.
Chiến hạm rời bến Đà Nẵng lúc 2000H (8 giờ đêm) với tốc độ chậm để chờ HQ5. Lúc 00 giờ 12 qua ngày 18-1, HQ5 bắt đầu tách bến và bắt kịp HQ 10 vào lúc 3 giờ 15 sáng. Trước t́nh trạng kỹ thuật của HQ10 chỉ c̣n xử dụng được một máy và do nhu cầu hành quân khẩn cấp nên HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Hành Quân đă quyết định chỉ thị HQ5 chạy trước bỏ lại HQ10 phía sau.
Trên đường đến HS, Hạm Trưởng HQ10, HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà (K.12/SQHQ/NT) ra lịnh kiểm soát tất cả mọi ụ súng, đem đạn tối đa từ hầm đạn lên các dàn súng nhưng tất cả các khẩu súng đều phải bao lại và ṇng súng chỉa lên trời, HT khuyến khích tất cả các nhân viên không thuộc phiên đi ca cố ngũ để lấy sức cho những ngày kế tiếp. Ngoài ra ông ra lịnh mang lương khô để ở các nhiệm sở tác chiến và kiểm soát lại 4 bè cấp cứu cùng các hộp mưu sinh thoát hiểm. HT c̣n ra nghiêm lịnh bắt buộc tất cả nhân viên phải mặc áo phao và đội nón sắt mặc dù trời rất nắng và nóng bức (đây là những chỉ thị rất sáng suốt của một cấp chỉ huy đầy kinh nghiệm, tiên liệu được những điều có thể xảy ra cho chiến hạm trong một trận hải chiến và cũng nhờ những nghiêm lịnh này mà các chiến sĩ HQ10 trong lúc đào thoát đă có sẵn một số nước uống, thực phẩm khô để cầm cự trong thời gian đầu và áo phao đă giúp họ không bị ch́m cũng như che chỡ bớt cơn lạnh về đêm).
HQ10 đến HS vào khoảng 11 giờ đêm ngày 18-1. HT liên lạc với cấp chỉ huy trực tiếp là HQ Trung Tá Lê Văn Thự (K.10/SQHQ/NT) Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Lư Thường Kiệt HQ16 kiêm Chỉ Huy Trưởng Phân Đội II (gồm có HQ 10 và HQ 16), sau đó thi hành lịnh của Trung Tá Thự, HT ra lịnh làm tối chiến hạm (darken ship) để địch không nhận dạng được.
Khoảng 01.00H khuya 19-1, chiến hạm nhận được lịnh hành quân từ Đại Tá Ngạc. Sau khi hội ư với HP là HQ Đại Úy Nguyễn Thành Trí (K.17/SQHQ/NT), HT đă ở lại pḥng vô tuyến phụ cạnh đài chỉ huy (ĐCH) để liên lạc với các giới chức liên hệ và chỉ thị HP họp các SQ và nhân viên tại pḥng ăn SQ vào lúc 0200H.
Trong buổi họp, HP đă thông báo cho thủy đoàn HQ10 biết là theo nội dung công điện hành quân th́ chiến hạm sẽ chuẫn bị chiến đấu thực sự lúc 6 giờ sáng, HP cũng nhấn mạnh ở điểm là bên ta không được khai hỏa trước v́ vậy phần thiệt hại về phía ta có thể lên đến 80% hoặc 90%. Trung Úy Nguyễn Đông Mai có đặt câu hỏi về việc khai hỏa th́ HP trả lời đây là lịnh từ Sài G̣n chúng ta phải thi hành theo lịnh. Cuộc họp chấm dứt vào lúc 0230H.
Khoảng 4 giờ sáng, sau một giấc ngủ ngắn HT thức giấc và từ ĐCH ông ra lịnh kéo c̣i nhiệm sở tác chiến. Tiếp theo hồi c̣i.. tít..tít..tít..là tiếng của HT vang lên trong hệ thống âm thoại: "Đây là HT…nhiệm sở tác chiến …nhiệm sở tác chiến…tất cả vào nhiệm sở tác chiến”.
Nghe tiếng c̣i và lịnh của HT tất cả nhân viên bật dậy và lập tức vào nhiệm sở của ḿnh. Tiếp theo đó là nhiệm sở pḥng không. Tất cả ṇng súng rợp rợp hướng lên trời ở góc độ 45 độ.
Khoảng 4 giờ 30 có hai đóm sáng trên trời, tất cả các khẩu súng đều quay về hướng hai mục tiêu này.
Khoảng 5 giờ 30 hai đóm này lại xuất hiện.
Lúc 6 giờ hai đóm sáng này bay thấp hơn có lẽ là hai phản lực cơ.
Sự xuất hiện liên tiếp của các phi cơ lạ tạo nên t́nh trạng căng thẳng cho tất cả các nhân viên trên chiến hạm, chắc hẳn mọi người ai cũng linh cảm rằng một cuộc hải chiến chắc sẽ xảy ra.
Rạng sáng ngày 19-1, thi hành lịnh Phân Đội Trưởng, HQ10 di chuyển vào ḷng chảo nhóm Nguyệt Thiềm theo lối giữa băi Antelope và đảo Quang Ḥa. Lúc này trời c̣n lờ mờ chưa tỏ hẵn ánh dương, lực lượng địch bây giờ được tăng cường thêm 2 chiếc Trục lôi hạm T43 mang số 389, 396. Như vậy chúng có cả thảy 4 chiến hạm (2 chiếc Hộ tống hạm loại Kronstadt số 271, 274 đă xuất hiện từ trước) và 2 tàu đánh cá ngụy trang mang số 402, 407 đang hiện diện tại vùng, đối đầu với 4 chiến hạm của ta (kể cả Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Tuần Dương Hạm Trần B́nh Trọng HQ 5 thuộc Phân Đội I đang ở trong khu vực phía Nam và phía Tây Nam đảo Quang Ḥa).
Chiến hạm ta và địch chạy đan qua đan lại nhau rất gần. Địch nhiều lúc như muốn đâm thẳng cả tàu vào chiến hạm của ta nhưng về cả hai phía các khẩu súng đều chỉa lên trời.
Khoảng 6 giờ 30, Đại Tá Ngạc ra lịnh cho HQ5 đổ bộ toán người Nhái lên đảo Quang Ḥa. Toán này vừa tiến vào bờ th́ bị lính TC nổ súng trước, một SQ và một chiến sĩ người Nhái bị tử thương. Đại Tá Ngạc ra lịnh toán người Nhái mang xác SQ và rút toàn bộ trở về HQ5.
Nghe tiếng súng nổ, HT thông báo diển tiến và ra lịnh tất cả nhân viên sẵn sàng. Ngay sau tiếng súng nổ trên đảo, chiến hạm của ta và TC không c̣n chạy gần nhau nữa mà bắt đầu tách ra xa.
Khoảng 9 giờ, các tàu TC trao đổi quang hiệu. Ngay tiếp sau đó các tàu đánh cá ngụy trang được 4 chiến hạm bảo vệ di chuyển song song về hướng Bắc và dần dần biến mất ở cuối chân trời. Mọi người trên chiến hạm thoáng vui mừng, ai cũng thở phào nhẹ nhơm nghĩ là TC đă chịu lùi bước rút lui. Phần Trung Úy Hà Đăng Ngân hơn ngày qua lúc nào thần kinh cũng căng thẳng áo phao, nón sắt rất bực bội bây giờ được tạm cỡi ra vừa xuống pḥng ăn cơm xong định đặt chân vào pḥng tắm th́ c̣i nhiệm sở tác chiến đột ngột reo inh ỏi, Tr/Úy Ngân tức tốc chạy lên nhiệm sở, mặc lại áo phao, đội nón sắt vào. Nh́n theo hướng chỉ trên ĐCH thấy có mấy vệt khói mỏng nơi cuối chân trời, rồi từ từ 4 chiến hạm TC đă rời vùng cách đây khoảng một tiếng quay đầu trở lại. Khi các chiến hạm TC tiến đến các chiến hạm ta, chúng không đến gần như lúc sáng mà ở xa xa khoảng 1 km làm thành một ṿng tṛn bao quanh các chiến hạm ta. Sau khi chạy loang quanh chừng 2 ṿng các tàu TC từ từ lảng xa ra hơn. Như tiên đoán trước được dấu hiệu khác thường HT ra lịnh chuẩn bị tác chiến nhưng tất cả ṇng súng hướng vào phía đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch. Trông chờ măi khẩu lịnh “bắn” vẫn chưa được ban hành, thủy thủ đoàn có phần xao lăng không c̣n vẽ hăng say như lúc đầu. Lợi dụng khoảng thời gian này , một số nhân viên ở các nhiệm sở luân phiên vào nhà ăn để dùng cháo cho buổi điểm tâm.
Khoảng 10 giờ, hai chiếc tàu TC mang số 389, 396 bắt đầu tách rời ra khỏi hai chiếc 271, 274 và chạy song song gần nhau. Như một kinh nghiệm chiến trường, HT ra lịnh hạ ṇng súng và quay súng về phía tàu TC, vài phút sau hai tàu TC chạy gần sát vào nhau và th́nh ĺnh cùng quay mũi song song trực chỉ HQ10. HT ra lịnh tất cả ổ súng hướng về hai mục tiêu địch và xin lịnh cấp trên cho phép nổ súng nhưng được trả lời chờ Sài G̣n quyết định. Lúc này thần kinh tất cả mọi người thật căng thẳng. Hai tàu TC cứ từ từ đến gần, khi c̣n cách HQ10 khoảng 200-300m, HT hét lớn “bắn”. Tất cả các khẩu súng trên tàu đều nhả đạn vào tàu địch. HQ10 khai hỏa đầu tiên do lịnh của chính HT (theo HQ Tr/Tá Lê Văn Thự Hạm Trưởng HQ16 th́ HQ16 khai hỏa trước). Những phát đạn đầu tiên của HQ10 trúng ngay vào chiếc 389 của TC làm nó bốc cháy khói mịt mù phải lùi lại phía sau, cùng lúc khẩu 127 ly trên HQ16 trực xạ vào chiếc 396 và chiếc này bị trúng đạn ngay ĐCH làm hư hệ thống tay lái nên tàu cứ xoay quanh. Đến lúc này HQ10 vẫn an toàn, đạn từ tàu TC bắn tới đều bay qua đầu hoặc nổ trên mặt nước.
Chiếc 389 bị trúng nơi hầm đạn với lỗ thủng hơi lớn làm nước tràn vào, ngoài ra máy phát điện cũng bị hư v́ trúng đạn. Sau khi đă cố gắng vá xong lỗ thủng và sửa chửa máy phát điện, chiếc này quay trở lại tham chiến.
Điểm cần nêu lên ở đây là so sánh về hỏa lực th́ hai trục lôi hạm số 389 và 396 tuy không được trang bị đại bác cỡ lớn nhưng bù lại mỗi chiếc có 4 khẩu đại bác 37 ly (tương đương với đại bác Bofors 40 ly của ta) và 4 khẩu đại bác 25 ly. So sánh về kích thước 2 chiếc này tương đương với HQ10, do đó địch đă áp dụng chiến thuật bám sát vào các chiến hạm ta để làm giảm đi sự hiệu quả của khẩu 127 ly trên HQ16 và 76, 2 ly trên HQ10.
Đang chiếm ưu thế, bổng dưng khẩu 76, 2 ly trên HQ10 bị trở ngại tác xạ (có phải đây là lư do mà HT đă khẩn cấp gọi HP lên ĐCH???) thêm vào đó chiến hạm lại chỉ có một máy khiển dụng, v́ thế việc vận chuyển để xử dụng tối đa 2 khẩu đại bác 40 ly ở phía sân sau cùng một lúc rất là khó khăn. Lợi dụng sự bất lợi của HQ10, chiếc 389 đă tấn công tới tấp và HQ10 bắt đầu trúng đạn ở ĐCH và pḥng lái. HT, hầu hết các Sĩ Quan, HSQ và nhân viên ngành Giám lộ và Vận Chuyển có mặt trên ĐCH và pḥng lái đều tử trận ngoại trừ Hạm Phó bị thương nặng nơi mặt, bụng và chân phải (mất một miếng thịt ở chân phải).
Ngoài ĐCH và pḥng lái, hầm máy và hầm đạn dược cũng bị trúng đạn bốc cháy. Đạn nổ văng tứ tung và khói đen tuôn mịt mù khắp con tàu.
Từ vị trí cách HQ 10 khoảng vài trăm mét, quan sát thấy HQ10 đang ở trong t́nh trạng rối loạn, không bỏ lỡ cơ hội chiếc 389 của TC vận chuyển tiến vào phía sau lái hữu hạm HQ10. Thấy tàu địch có ư định cặp vào một vài nhân viên hơi giao động nhưng 2 chiến sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu vẫn ngang nhiên gh́ chặt ṇng súng làm tṛn phận sự của ḿnh (lúc này trên HQ10 có khoảng 50 chiến sĩ đă hy sinh, một số bị thương nặng nhẹ, chỉ c̣n khoảng 20 người c̣n khả năng chiến đấu). Lính TC trên 389 ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên , súng bazooka qua HQ10 với mục đích thanh toán các ổ súng c̣n lại, sau đó sẽ cặp vào đổ bộ lính lên chiếm đoạt tàu và bắt sống thủy thủ đoàn HQ10.
Những đợt tác xạ của địch trúng vào Đài Chỉ Huy đă làm Đ/U Trí rớt xuống pḥng lái, tuy nhiên với dáng người to con, tướng vạm vỡ (cao 1,74m - nặng 70 kg), HP Nguyễn Thành Trí mặc dù đang bị thương nặng nhưng đă cố gượng đứng lên. Đoán được ư định của giặc, từ pḥng lái, Đ/U Trí đă giựt lấy khẩu M16 nhă hàng loạt đạn vào tàu địch và sau khi đợi tàu địch vào đúng vị trí, Đ/U Trí đă cố sức vận chuyển chiến hạm, lấy hết tay lái về bên phải, hướng mũi tàu HQ10 đâm vào hông chiếc 389 của địch.
Quá bất ngờ trước hành động sáng suốt và quyết tử này, chiếc 389 không c̣n cách ǵ để vận chuyển tránh né khỏi nên đă bị phần mũi của HQ10 đâm mạnh vào yếu điểm của chiến hạm là phần sau lái. Cú đụng mạnh này cộng thêm vào những hư hại do hỏa pháo của HQ10 bắn trúng trong đợt khai hỏa đầu tiên đă đưa chiếc 389 lâm vào t́nh trạng nguy kịch, có lẽ đang sắp sửa ch́m. Đây chắc cũng là lư do khiến chiến 396 phải ngưng chiến đấu với HQ16 để cấp tốc chạy đến tiếp cứu chiếc 389. Tuy nhiên, ngay cả chiếc 396 cũng lâm vào t́nh trạng nguy ngập v́ thế 2 tàu đánh cá ngụy trang 402 và 407 đă đến tiếp cứu và đưa 389 ủi vào băi san hô.
Có thể nói đây là một chiến công thật hiển hách của anh hùng Nguyễn Thành Trí trước giặc thù Trung Cộng. Nhận lănh trách nhiệm quyền Hạm Trưởng (HT Tuần Dương Hạm Lư Thường Kiệt kiêm Phân Đội Trưởng Phân ĐộI II đă chỉ định HQ Đ/U Nguyễn Thành Trí thay thế HT Ngụy Văn Thà đă tử thương) trong lúc đang bị thương nặng, một ḿnh đơn độc trên đài chỉ huy (Hạm Trưởng và hầu hết các SQ và nhân viên trên đài chỉ huy và pḥng lái đă hy sinh), chiến hạm lại đang ở trong t́nh trạng nguy kịch, Đ/U Trí quyết định liều chết trong t́nh trạng khẩn trương đă dùng con tàu làm vũ khí lợi hại chống lại kẻ thù. Đ/U Trí không những đă phá vỡ ư đồ cướp tàu, bắt sống thủy thủ đoàn và mang HQ10 về làm chiến lợi phẩm của địch mà ngược lại c̣n gây thiệt hại nặng nề cho tàu địch.
Hành động này của Đ/U Trí đă dẫn đến cái chết cho ông và 6 chiến sĩ trên HQ10 trong lúc đào thoát, nhưng ngược lại đă bảo toàn danh dự của Hải Quân VNCH và của tổ quốc Việt Nam.
V́ cấu trúc của phần mũi HQ10 rất chắc chắn nên sau khi đâm mạnh vào sau lái chiếc 389, phần sườn và vơ tàu HQ10 không bị hư hại thêm nhiều nhưng cả 2 máy lúc này hoàn toàn bất khiển dụng. Chiến hạm ta và địch từ từ tách ra xa. Tiếng súng đă lắng dịu. Trận hải chiến đang ở trong giai đoạn chấm dứt. HQ16 đang cố gắng bơm nước ra và sửa chửa máy phát điện từ từ ra khỏi ḷng chảo hướng về Đà Nẵng. HQ4 và HQ5 rời vùng về hướng Đông Nam. Chiến hạm địch đang tự cứu hoặc đến cứu giúp lẫn nhau. Do đó, mặc dù HQ10 vẫn c̣n hiện diện tại vùng chiến nhưng đă không có một chiến hạm nào khác của TC đến gần để thăm ḍ hoặc để bắn ch́m. Măi đến 11 giờ 49 phút TC mới ra lịnh cho 2 chiến hạm loại Hainan mang số 281, 282 tăng tốc độ trực chỉ đến vùng và chúng đă đến địa điểm giao chiến vào lúc 12 giờ 12 phút.
T́nh trạng HQ10 lúc này quá bi đát, gần 70% nhân viên đă hy sinh kể cả Hạm Trưởng, một số đang bị thương, pḥng máy c̣n đang cháy, các nhân viên cơ khí bị cháy đen thui trong đó có Tr/Úy Thạch Cơ khí trưởng hai chân hầu như ĺa khỏi thân ḿnh, mặt mày cháy đen, 2 máy chánh và máy điện hoàn toàn bất khiển dụng, hệ thống liên lạc nội bộ và máy truyền tin không xử dụng được.
Đ/U Trí từ ĐCH ḅ xuống sàn tàu. Trước t́nh trạng tuyệt vọng không được sự tiếp cứu từ các chiến hạm bạn, ngoài ra các chiến hạm địch cũng đang tự cứu lấy do đó không c̣n là mối đe dọa nữa. Có lẽ đây là những lư do đă khiến cho Đ/U Trí ra lịnh đào thoát.
Với gương mặt đầy máu, Đ/U Trí được hai nhân viên d́u đứng gần bè cấp cứu dơng dạc tuyên bố: ” Hạm Trưởng đă hy sinh, tôi thay mặt Hạm Trưởng ra lịnh đào thoát.” Sau đó, Đ/U Trí đă lết đến từng chỗ mà kéo vực các binh sĩ xuống bè đào thoát (trong số này có Tr/úy Phạm Văn Th́ đang ở tại nhiệm sở thủ cây đại liên). Ngoài ra Đ/U Trí chỉ định những nhân viên c̣n khỏe mạnh thả 4 bè cấp cứu cùng phụ giúp đưa những người bị thương xuống bè và chuẩn bị 1 bè nhỏ có 2 miếng ván kê lên để cho 2 chiến sĩ bị thương nặng là TS/VC Đa và TS/TP Nam nằm lên.
Khi tất cả nhân viên đă xuống bè, Đ/U Trí với vết thương quá nặng, khắp người nhầy nhụa máu cương quyết ở lại chết cùng Hạm Trưởng cùng nhân viên và chiến hạm nhưng hai nhân viên là HS/TP Trần Ngọc Sơn và TT/TX Trương Văn Long đă cặp và lôi ông xuống bè.
Như vậy cuộc đào thoát đă được thực hiện từng giai đoạn, rất có kỷ luật và theo đúng truyền thống Hải Quân. Quyền Hạm Trưởng Nguyễn Thành Trí là người cuối cùng miển cưỡng rời chiến hạm. Trong những giờ phút sau cùng, Đ/U Trí vẫn không quên những bài học về Hải Quy trong hai năm thụ huấn nơi quân trường.
Khi tất cả nhân viên đă lên bè đầy đủ (có người nhảy xuống nước rồi mới lên bè) kiểm điểm lại có tất cả 28 người trong đó có những người bị thương nặng và nhẹ trên 4 bè lớn và 1 bè nhỏ, ngoại trừ các chiến sĩ đă hy sinh.
Xin xem tiếp phần hai