Tội ác Cộng Sản Việt Nam - Cải Cách Ruộng Đất
[B]Tội ác Cộng Sản Việt Nam - Cải Cách Ruộng Đất
[/B]
Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương tŕnh nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập... được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thực hiện vào những năm 1953–1956. Cải cách ruộng đất tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho bần nông, cố nông; đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội họ.
Đây là một trong những phương cách chính yếu mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xă hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xă hội một cách nhanh chóng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Manifesto), Karl Marx đă tuyên bố: "cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc". Dựa theo mô h́nh thổ địa cải cách của Trung Quốc (1946–1949), cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để[1] với sự cố vấn trực tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc[2].
Sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách đă phân chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, với t́nh h́nh nông thôn Trung Quốc và Việt Nam hoàn toàn khác nhau, việc áp đặt giáo điều t́nh h́nh hai quốc gia đă gây ra nhiều phương hại[3]. Cuộc cải cách và đấu tố này đă gây một không khí kinh hoàng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, và tác hại mạnh đến sự đoàn kết dân tộc và nhiều thế hệ người Việt. Suốt 1 năm sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự-tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này.
[B]Mục đích[/B]
Chương tŕnh cải cách ruộng đất là một bước trong tiến tŕnh đưa miền Bắc Việt Nam tiến lên xă hội chủ nghĩa, do Đảng Lao động Việt Nam tổ chức và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thực thi, hệ thống hóa và khai triển trên địa bàn rộng, công việc mà nhiều chính quyền địa phương đă làm từ những năm đầu Cách mạng tháng Tám:
Tịch thu tài sản ruộng đất do người Pháp, người dân di cư, hay Việt gian (những người theo Pháp) bỏ lại, hay bỏ hoang v́ chiến tranh;
Phân chia cho tá điền;
Cắt giảm địa tô;
Băi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng.
Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam th́ các công việc này cũng được Đảng và Chính phủ tiếp tục từng bước giải quyết trong kháng chiến chống Pháp, nhưng đến 1953 th́ mới được phát triển rộng (khởi sự tại Thái Nguyên). [4]
Tại ḱ họp thứ ba của Quốc hội, để phát động chiến dịch, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa Hồ Chí Minh phát biểu: "Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp t́nh, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ". [5]
Trước đó, thông tư liên bộ của năm 1949 đưa ra nguyên tắc chủ yếu về phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này họ tịch thu được từ điền chủ của người Pháp, từ điền chủ là những người mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa quy kết là "Việt gian", tức là những người bị kết tội thông đồng với Pháp.
[B] Tổ chức[/B]
Tháng 11 năm 1953, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa nhóm họp và thông qua dự luật cải cách ruộng đất 197/HL. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê thuận và chính thức ban hành bộ luật này vào ngày 19 tháng 12 năm 1953 để kỷ niệm ngày Toàn quốc Kháng chiến, mang tên "Luật Cải cách Ruộng đất". Đồng thời điểm này, Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Đại hội Toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam cũng họp và tổ chức chuẩn bị thi hành cải cách ruộng đất sâu rộng trên toàn lănh thổ. Đảng này cũng chỉ định một ủy ban lănh đạo chương tŕnh cải cách ruộng đất và hoạch định tiến tŕnh cải cách ruộng đất.
[sửa] Ban lănh đạo
Phát động và làm tư tưởng chiến dịch: Hồ Chí Minh (Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam và nhà nước)
Trưởng ban chỉ đạo trực tiếp: Trường Chinh (Tổng Bí thư đảng)
Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thái Nguyên: Hoàng Quốc Việt (Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh: Lê Văn Lương (Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
Giám đốc trực tiếp điều hành chiến dịch: Hồ Viết Thắng (Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương đảng)
[B] Tiến tŕnh[/B]
Chương tŕnh cải cách ruộng đất được áp dụng qua bốn bước chính:
[sửa] Huấn luyện cán bộ
Các cán bộ Đảng Lao động tham gia cải cách ruộng đất được đưa đi học khóa Chỉnh huấn 1953, và một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc [cần dẫn nguồn]. Các chương tŕnh học tập nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của đảng trong cải cách ruộng đất, quán triệt quan điểm: "trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ" [cần dẫn nguồn]. Tổng số cán bộ được điều động vào công tác là 48.818 người.
[B]Chiến dịch Giảm tô
[/B]
Bước đầu, các đội cán bộ cải cách ruộng đất đi vào các làng xă và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với các bần cố nông trong làng xă đó, kết nạp họ thành "rễ", thành "cành" của đội, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau:
Phân định thành phần: Đội Cải cách Ruộng đất ra mắt làng xă, và tất cả các gia đ́nh trong xă được họ phân loại thành 5 thành phần: (a) địa chủ; (b) phú nông; (c) trung nông cứng - sở hữu 1 con ḅ, 1 con lợn, 1 đàn gà; (d) trung nông vừa - sở hữu 1 con lợn, 1 đàn gà; (e) trung nông yếu - sở hữu 1 đàn gà hay không có ǵ cả; (f) bần nông; (g) cố nông. Gia đ́nh có 2 con lợn đă có thể gọi là phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông thôn và các đoàn và đội cải cách đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một quy định bắt buộc, gọi là "kích thành phần".
Phân loại địa chủ: Tất cả các gia đ́nh bị xếp vào thành phần địa chủ như nói trên được đội cải cách phân loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác; (a2) Địa chủ thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội cải cách bắt ngay lập tức và quản thúc.
Áp dụng thoái tô: Đối với các gia đ́nh có địa chủ bị bắt nói trên, đội cải cách thông báo với họ về các sắc lệnh giảm tô của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, bao gồm: sắc lệnh giảm tô xuống c̣n 25% vào tháng 11 năm 1945, sắc lệnh số 87/SL năm 1952 và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%. (Tại miền Bắc, tô hay địa tô là tiền thuê ruộng mà tá điền phải trả cho địa chủ sau mùa gặt, có thể trả bằng thóc.) Căn cứ theo đó, địa chủ nào chưa giảm tô cho nông dân th́ bây giờ phải trả số nợ đó — gọi là "thoái tô". Nếu không trả đủ nợ th́ tài sản bị tịch thu, phân phát do nông dân. Sau bước này, hầu hết gia đ́nh địa chủ lâm vào hoàn cảnh khánh kiệt, nhiều người đến chỗ tự sát — v́ nếu sống trong vùng kiểm soát của Pháp th́ không biết ǵ về các sắc lệnh của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.[6]
Học tập tố khổ, lùng bắt địa chủ: Các bần nông, cố nông, "chuỗi", "rễ" được đội cải cách cho học lớp tố khổ do họ mở, qua đó học viên được nhận dạng các tội ác của địa chủ, và được khuyến khích nhớ ra tội ác của từng địa chủ đă bóc lột họ như thế nào. Sau khi học qua lớp tố khổ nhiều bi kịch xảy ra: con tố cha, vợ tố chồng... Du kích và cốt cán cải cách ruộng đất t́m bắt địa chủ, việt gian, thậm chí họ "vác súng vào thành phố lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ là cán bộ công nhân viên chức nhà nước".[7]
Công khai đấu tố: Các buổi đấu tố được tổ chức, thông thường vào ban đêm. Số lượng người tham gia đấu tố được huy động từ vài trăm đến cả ngàn người, và thời gian đấu tố từ một đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố, các bần nông bước ra kể tội địa chủ đă bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức cải cách ruộng đất, Đảng Lao động cho ra tờ báo lấy tên là Lá Rừng (ngụ ư tội ác địa chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố các địa chủ được tạm giam trở lại để chờ ṭa án nhân dân xét xử, cũng có người bị đánh chết ngay trong lúc đấu tố[cần dẫn nguồn]. Gia đ́nh và thân nhân người bị đấu tố th́ bị cô lập, bị bỏ đói và chịu nhiều sự phân biệt đối xử và nhục h́nh.
Xử án địa chủ: Tại các huyện, một ṭa án nhân dân đặc biệt được lập ra và đi về các xă xét xử các địa chủ. Sau khi kết án, địa chủ bị xử bắn trước công chúng do đội tự vệ xă hành quyết. Những người không được xử bắn th́ bị cô lập trong các làng xă, một số bị thiệt mạng v́ bị bỏ đói.
Tổng cộng có tám đợt giảm tô từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 1.875 xă.
[B]Chiến dịch Cải cách Ruộng đất
[/B]
Nhiều tháng sau khi Chiến dịch Giảm tô được triển khai, chương tŕnh Cải cách Ruộng đất chính thức bắt đầu, với h́nh thức tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn, và các gia đ́nh địa chủ có thành tích kháng chiến, kể cả các gia đ́nh có đảng viên, cán bộ, bộ đội phục vụ trong kháng chiến cũng bị đấu tố. Tổng cộng có năm đợt cải cách ruộng đất từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 3.314 xă. Người đầu tiên bị buộc tội chết trong cải cách ruộng đất là một phụ nữ, bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên, bà là địa chủ kháng chiến có nhiều công lao lớn với cách mạng Việt Nam. [8]
Tổng cộng có 6 đợt lớn cải cách ruộng đất. Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Hoa, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn. Từ giữa năm 1955 ở một số nơi đă xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát. Từ đó đến cuối năm 1955, cảnh đấu tố địa chủ xảy ra tràn lan, nhiều lúc chỉ đơn thuần bằng một lời tố giác đơn giản, những thành viên trong ṭa án nhân dân cũng có thể xử tử h́nh hay tù khổ sai đối với người bị tố giác. Đă xuất hiện t́nh trạng lạm dụng quyền hành của các cán bộ đội viên đội công tác ruộng đất trong công tác đất đai. Họ đấu tố mọi nhà, đấu tố mọi người, nhưng lại quên đấu tố bản thân. Số người chết trong đợt này là rất lớn, trong đó số người chết oan chiếm tỷ lệ cao. Quyết liệt nhất là ở Thái B́nh, nơi có đến 294 xă được đưa vào cải cách.
Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 11 năm 1953, Hội nghị Ban chấp hành trung ương đảng lần thứ 5 quyết định tiến hành việc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đă được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đă chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác việc thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đă gây ra nhiều hậu quả to lớn. Đă có rất nhiều người bị đấu tố oan. Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều nông dân trong tầng lớp trung nông đă bị đấu tố là địa chủ và việc đấu tố oan là do "bị địch lũng đoạn". Những sai lầm này, như đă được đề cập đến trong bài phát biểu tháng 10 năm 1956 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh Tường,[6] đă làm Đảng Cộng sản Việt Nam bị mất uy tín đối với nhiều người dân.
[B] Chiến dịch Sửa sai[/B]
Trong tuyên bố của hội nghị TƯ 10, tháng 9/1956 đă nghiêm khắc phê b́nh:"Giai đoạn vừa qua có nhiều sai lầm và khuyết điểm. Đặc biệt là trong cuộc cải cách nông nghiệp và điều chỉnh tổ chức. Hội nghị TƯ lần thứ 10 đă phân tích chi tiết các khuyết điểm, t́m ra nguyên nhân và thống nhất những biện pháp khắc phục. Hội nghị thừa nhận nguyên nhân của những khuyết điểm là sự yếu kém của bộ máy lănh đạo. V́ thế Ban chấp hành TƯ nhận khuyết điểm của ḿnh. Các ủy viên tham gia trực tiếp đă kiểm điểm trước TƯ theo tinh thần tự phê, và chấp nhận những h́nh thức kỷ luật nghiêm khắc."
Do nhận định chiến dịch Cải cách Ruộng đất giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ tiến hành các bước sửa sai như sau:
Tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 9 tuyên bố các sai lầm trong cải cách ruộng đất.
Tháng 3 năm 1956, Quốc hội họp lần thứ 4 tường tŕnh bản báo cáo các sai lầm và biện pháp sửa sai.
Ngày 18 tháng 8 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nh́n nhận sai lầm và cho biết Trung ương đảng và chính phủ đă nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm.
Ngày 24 tháng 8 năm 1956, báo Nhân Dân công bố có một số đảng viên trung kiên đă bị hành quyết sai lầm trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất.
Tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỷ luật đối với Ban lănh đạo chương tŕnh Cải cách Ruộng đất như sau: ông Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị[9], và ông Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Chấp hành Trung ương đảng.
Ngày 29 tháng 10 năm 1956, Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, người không tham gia trực tiếp vào sai lầm chương tŕnh Cải cách Ruộng đất, thay mặt chủ tịch nước đọc bản báo cáo của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng tại nhà hát lớn Hà Nội, kê khai sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi các chức vụ tài sản cho cán bộ, bộ đội bị đấu tố.
Theo tổng kê đến tháng 9 năm 1957, th́ chiến dịch sửa sai đă phục hồi danh dự và trả lại tài khoảng 70-80% số người bị kết án. Theo báo Nhân Dân th́ chiến dịch sửa sai cũng gây thêm chết chóc khi các đảng viên được phục hồi trả thù những người đă đấu tố họ oan ức, hoặc chưa kịp trả thù thị bị thủ tiêu trước để tránh việc trả thù.[cần dẫn nguồn]
Phong trào trả thù bằng bạo động lan rộng khiến nhà chức trách phải dùng quân đội trấn áp. Ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có bản báo cáo ghi nhận 20.000 nông dân mang gậy gộc chống lại quân đội khi chính quyền dùng vũ lực để tái lập trật tự.[10]
Tuy nhiên, theo một số nhân chứng, có những trường hợp việc sửa sai chỉ đơn thuần là phục hồi đảng tịch, quy lại thành phần (từ địa chủ, phú nông trở lại thành trung nông) chứ không được trả lại tài sản, nhà đất. Đến năm 2004, theo báo Hà Nội Mới, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội mới ra quyết định trợ cấp cho một số trường hợp bị qui sai thành phần và có tài sản bị trưng thu, trưng mua trong thời ḱ Cải cách Ruộng đất với mức ba triệu đồng một trường hợp. [1]
[sửa] Các đợt cải cách
Đợt
Thời điểm Địa bàn Số xă đưa vào
Cải cách Ruộng đất
Đợt Thí điểm
(25/12/1953 - 22/10/1954) Thái Nguyên không rơ
Đợt 1
(1/4/1954 - 15/01/1955) Một số các vùng kiểm soát không rơ
Đợt 2
(23/10/1954 - 15/01/1955) Thái Nguyên 22
Phú Thọ 100
Bắc Giang 22
Thanh Hóa 66
Đợt 3
(18/02/1955 - 20/06/1955) Vĩnh Phúc 65
Phú Thọ 106
Bắc Giang 84
Sơn Tây 22
Thanh Hóa 115
Nghệ An 74
Đợt 4
(27/06/1955 - 31/12/1955) Vĩnh Phúc 111
Phú Thọ 17
Bắc Giang 1
Bắc Ninh 60
Sơn Tây 71
Thanh Hóa 207
Nghệ An 5
Hà Tĩnh 227
Hà Nam 98
Ninh B́nh 47
Đợt 5
(25/12/1955 - 30/07/1956) Bắc Ninh 8
Nghệ An 163
Hà Tĩnh 6
Ninh B́nh 45
Quảng B́nh 118
Vĩnh Linh 21
Hải Dương 217
Hưng Yên 149
Thái B́nh 294
[sửa] Những thành tích và sai lầm trong chiến dịch
[sửa] Thành tích
Năm 1953, giữa lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu chiếm ưu thế trên chiến trường, cuộc cải cách ban đầu có những kết quả nhất định khi chỉ thực hiện việc tịch thu tài sản, đất đai của những thành phần địa chủ bị kết tội Việt gian (theo Pháp chống Việt Minh) chia cho bần nông, cố nông. Chính việc cải cách này đă góp một phần không nhỏ nâng cao sự ủng hộ của dân chúng để dốc toàn lực cho trận chiến quyết định.
Cuộc cải cách đă phân chia lại đất canh tác một cách công bằng cho đa số nông dân Bắc Bộ. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đă được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đă chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.[11]
[sửa] Sai lầm chung
Đánh giá sai lầm về t́nh h́nh khác biệt giữa nông thôn Trung Quốc và Việt Nam, quá tin tưởng và chịu sức ép của các cố vấn Trung Quốc.[2]
Yếu tố bạo lực có nguồn gốc bột phát từ hận thù giai cấp và cá nhân đă được tích lũy bao đời nay trên những cánh đồng lúa. Địa chủ trở thành chỗ cho dân nghèo trút cơn giận dữ v́ cuộc sống khó khăn của họ, số khác th́ v́ ghen tức với tài sản của địa chủ. Cộng với tŕnh độ nhận thức thấp của đa số cán bộ cấp xă thời bấy giờ, dẫn tới nhiều trường hợp oan sai, lợi dụng trả thù cá nhân, và các hành vi bạo lực trong các cuộc đấu tố. Hậu quả của những hành động này nhiều khi rất bi thảm, nhưng có thể nh́n nhận như những sản phẩm phụ không thể tránh khỏi của bất cứ cuộc cách mạng nào[12] (tương tự như làn sóng tàn sát giới tăng lữ nhà thờ của người dân Pháp trong cuộc Cách mạng Pháp 1789)
Đánh giá sai và nâng sản lượng, nâng thuế lên quá cao, quá sức người dân. Như ở Hà Tĩnh, có những mẫu ruộng tính sản lượng là 32, 35 tạ một mẫu ta. Khá nhiều ruộng tốt được tính sản lượng ít nhất phải 25, 28 tạ. Trong khi đó như ở Liên Xô, theo ông Đặng Thái Mai: "ở LX cũng mới trù tính việc tăng năng suất các miền ruộng có thủy lợi (terres-irriguées) cho đến mức 40-50 tạ một hectare. Như vậy là với phương tiện kỹ thuật, nhân công, tổ chức của nông nghiệp Liên Xô, mà trong 4 năm nữa người ta mới yêu cầu tới mức 20 hay 25 tạ nửa hectare, nghĩa là c̣n hơn một mẫu ta...". [13]
Chiến dịch càng lên cao điểm càng mất kiểm soát dẫn đến t́nh trạng vô chính phủ, nhiều oan sai và cô lập, đối xử nhục h́nh với gia đ́nh người bị đấu tố. Hơn 70% người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông là quy sai. Điển h́nh như:
Trường hợp tử h́nh bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội, mẹ nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, có con trai một là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong Tuần Lễ Vàng, gia đ́nh bà cũng đă hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập. [2]
Trường hợp thiếu tướng Vương Thừa Vũ, tư lệnh Đại đoàn 308, nguyên tư lệnh mặt trận Hà Nội năm 1946, chủ tịch Ủy ban quân quản Hà Nội bị các cán bộ cải cách bắt ở ngoại thành Hà Nội v́ có người đấu tố ông là "địa chủ, có xuất thân là tư sản, lập trường chính trị không rơ ràng". [cần dẫn nguồn]
Các cháu nội của cụ Phan Bội Châu, trong đó có một người là Trung đội trưởng, nhà nghèo, 3 sào đất cho 3 mẹ con, nhưng cũng bị quy là địa chủ. [cần dẫn nguồn]
Đặc biệt, cụ Phó bảng Đặng Văn Hướng, Bộ trưởng phụ trách Thanh - Nghệ - Tĩnh của Chính phủ bị đấu tố chết tại quê nhà Diễn Châu. [14]
Ngoài việc tịch thu nhà đất của những người bị quy là địa chủ, những mục đích khác của chiến dịch không đạt được. Thực tế đau buồn khác là kết quả của cuộc cải cách ruộng đất lại không như người nông dân mong đợi khi ngay sau đó: vụ mùa năm 1957 được đánh giá là thất thu.
Cuộc đấu tố và cô lập, lùng bắt địa chủ và con cái của họ đă gây một không khí kinh hoàng tại nông thôn miền Bắc thời ấy. [cần dẫn nguồn] Giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, mất tin tưởng vào Đảng Cộng sản và nhà nước, gây chia rẽ trong nhiều thế hệ. [cần dẫn nguồn]
[B]Sai lầm trên phương diện pháp lư[/B]
Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956, cuộc cải cách ruộng đất được thực hiện với phương châm "thà chết 10 người oan c̣n hơn để sót một địch"; phương châm này đi ngược lại với quy tắc cơ bản của pháp luật, trong trường hợp này là "thà 10 địch sót c̣n hơn một người bị kết án oan". Cụ thể các quy tắc pháp lư đă bị xâm phạm là:
Không xử phạt các tội đă phạm quá lâu đến hiện tại mới điều tra ra.
Trách nhiệm của phạm nhân th́ chỉ một ḿnh phạm nhân chịu, không quy kết cho vợ con, gia đ́nh.
Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng.
Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị can. Bị can có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá tŕnh truy tố và xét xử; khi bị can ra trước ṭa không được xiềng xích và không được dùng nhục h́nh.
Các nguyên nhân sai lầm được cho là: quan điểm ta-địch, thù-bạn của chính quyền đương nhiệm rất mơ hồ; chính quyền bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lư; bất chấp ư kiến của giới chuyên môn.[6]
Số người bị đấu tố
Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu ḅ. Tổng cộng chiến dịch Cải cách Ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu ḅ, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung b́nh mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà.
Số lượng người bị giết trong chương tŕnh Cái cách Rộng đất là không thể thống kê chính xác và c̣n gây tranh căi. Nhưng theo chủ trương ở một số địa phương phải t́m cho ra tỷ lệ 5% địa chủ, "Việt gian" để mang ra đấu tố[3] th́ con số sẽ không ít.
Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số lượng người bị giết dao động khá lớn:
Theo tuần báo Time ngày 1 tháng 7 1957 th́ khoảng 15.000 người bị giết. [15]
Theo Gareth Porter: từ 800 đến 2500; theo Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000. Theo giáo sư sử học James P. Harrison: vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù[16]
Vũ Thư Hiên cho rằng con số nạn nhân là ít hơn con số 15.000 dẫn ở trên rất nhiều, tuy vậy ông chỉ có thể ước tính, chứ không có số liệu hoặc tài liệu nào cụ thể:
"Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số c̣n được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xă đă cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xă có trung b́nh một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị hăm cho chết đói, (những xă có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xă không có ai bị) th́ số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học." [cần dẫn nguồn]
Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam (tập hai) cho biết là đă có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông (trong đó có 123.266 người bị quy sai, hơn 70%, tức là bị oan). Theo quan điểm của những người thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, đây là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị "đào tận gốc, trốc tận rễ". Điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ bị tịch thu tài sản.
Về thành phần của con số 172.008 nạn nhân này, bảng thống kê ghi như sau: Địa chủ cường hào gian ác: 26.453 người, trong đó 20.493 người bị oan (77,4%). Địa chủ thường: 82.777 người, trong đó 51.480 người bị oan (62%). Địa chủ kháng chiến : 586 người, trong đó 290 bị oan (49%). Phú nông : 62.192 người, trong đó 51.003 người bị oan (82%). Tổng cộng: 172.008 người, trong đó 123.266 người bị oan : 71,66%. Số lượng này chưa kể đến thân nhân, gia đ́nh của những người bị quy sai, cũng bị cô lập và đối xử phân biệt.
Theo giáo sư Lê Xuân Khoa th́ chương tŕnh Cải cách Ruộng đất là một trong ba nguyên nhân chính đưa đến cuộc di tản 1954. Ngoài ra, ông nhận định lượng lúa gạo sản xuất ở đồng bằng sông Hồng bị giảm sút trầm trọng trong những năm cải cách ruộng đất và ngay sau đó.
[sửa] Ư kiến và nhận định riêng
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đă nói về t́nh cảnh oan sai như sau, trong diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại Hà Nội: “Qua cuộc Cải cách Ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành h́nh” [...] “Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đă hi sinh, có thể nói được, chết với trong ḷng chan chứa nỗi vui sướng v́ chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết v́ địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan v́ các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót v́ chết với một ô danh. Chúng ta đă xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được?”. [6]
Năm 2005, nguyên Thủ tướng Việt Nam Vơ Văn Kiệt nh́n nhận "Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đă không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế". [17]