Nho giáo và những ngộ nhận về Khổng Tử
Ở vào thế kỷ 21 này rất ít người c̣n muốn nói đến đạo lư Khổng-Mạnh v́ cho là:
- Đạo lư Khổng-Mạnh đă lỗi thời, đă thuộc về quá khứ, không c̣n thích hợp với thời đại văn minh hiện đại nữa.
- Đạo lư Khổng-Mạnh thuộc về văn hoá của Tàu mà Tàu th́ đang là kẻ thù của dân Việt v́ đă cưỡng chiếm đất và biển của Việt Nam.
- Đạo lư Khổng-Mạnh đă bị rất nhiều tác giả phỉ báng tàn tệ và gán cho không biết bao nhiêu là tội, kể cả tội đă là nguyên nhân đưa dân tộc rơi vào sự thống trị của chế độ phi nhân cộng sản v́ Nho giáo và cộng sản cũng đều bắt người dân phải tuyệt đối trung thành với giai cấp thống trị.
Nhưng tất cả đều chỉ là những ngộ nhận về đạo lư Khổng-Mạnh.
Bài này được viết ra không nhằm bênh vực hay biện hộ cho cá nhân ông Khổng Tử v́ thật sự ông không cần ai biện hộ cho ông. Ông đă sống trọn vẹn cuộc đời của ông, những ǵ đang xảy ra nơi cuộc đời ô trọc này đâu phải là điều ông c̣n bận tâm. Chúng ta mới là những người phải bận tâm xem có học được ǵ từ đạo lư Khổng-Mạnh để nâng cao phẩm chất của ḿnh, để được sống một đời người có nhân cách.
Những máy móc, vật dụng, quần áo, giầy dép và đồ trang sức chúng ta dùng hàng ngày đều có ngày bị xem là lỗi thời, là cổ hũ, nhưng những kinh nghiệm giúp chúng ta thay đổi phẩm chất con người chúng ta th́ không bao giờ lỗi thời cả. Ngay từ khi mở mắt chào đời, chúng ta đă được truyền vào những rung động về t́nh yêu của con người qua ḍng sữa mẹ, giúp ta từ bỏ đi bản năng của thú vật bằng những ôm ấp, yêu thương tràn ngập tiếng cười, tập cho ta đi trên đôi chân để bước vào xă hội loài người. Những công việc đó vẫn cứ lập đi lập lại hàng mấy trăm ngàn năm, không bao ǵờ lỗi thời cổ hũ để giữ cho xă hội loài người không bị đẩy trở lại vào thời ăn lông ở lỗ.
Khám phá vĩ đại nhất cũa nhân loại không phải là điện, máy bay hay điện toán, khám phá vĩ đại nhất cũa nhân loại là cái mà chúng ta không c̣n để ư đến trong đời sống hôm nay, đó chính là lửa. Không có lửa th́ chúng ta có lẽ vẫn c̣n đang ăn lông, ở lỗ, tranh giành, ganh đua với khỉ, vượn và một nửa cuộc đời vẫn phải lần ṃ trong bóng đêm. Lửa đă cho con người thời tiền sử có những phút giây ấm cúng quanh ngọn lửa hồng, làm nảy sinh t́nh cảm, làm những cơ bắp của lưỡi và quai hàm mềm mại hơn và từ đó đă khai sinh ra ngôn ngữ, v.v. Biết được nguồn cội của ḿnh th́ mới biết trân qúy những kinh nghiệm của người xưa giúp cho ḿnh thay đổi và nâng cao phẩm chất của ḿnh.
Bản tính con người lúc sơ sinh hiền lành hay hung ác th́ ngay chính Khổng Tử và những người có ảnh hưởng rất lớn vào Nho giáo là Mạnh Tử và Tuân Tử cũng không thống nhất v́ Mạnh Tử th́ cho rằng “[I][B]nhân chi sơ tính bổn thiện[/B][/I]” trong khi Tuân Tử thi tin là “[I][B]nhân chi sơ tính bổn ác[/B][/I]” và theo Khổng Tử th́ “bản tính con người giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau” (“tính tương cận, tập tương viễn”) và trong bài “[I][URL="http://www.danchimviet.info/archives/33445/dan-t%E1%BB%99c-nao-d%E1%BB%8Bnh-m%E1%BA%A1ng-do/2011/04"]Dân tộc nào, định mạng đó[/URL][/I]“, tác giả bài này cũng đă chứng minh con người lúc sơ sinh cũng chỉ là một động vật không có nhân tính và vô cảm.
Chính v́ thế mà con người cần phải được “giáo dục” để thành người lương thiện, thành người có nhân, có nghiă. Những xă hội Tây phương đă may mắn sớm có những điều kiện thuận lợi để nâng cao phẩm chầt con người và nhờ đó họ đă tiên phong trong công cuộc giải phóng con người thoát khỏi sự nô lệ để làm người tự do. Nô lệ tự nguyện hay bắt buộc th́ cũng đều bi thảm như nhau, đều dẫn đến khổ đau và chết chóc. Nô lệ tự nguyện là sự tôn thờ lănh tụ (Tôn giáo, Đảng phái, Chủ Nghĩa, Quốc gia, v.v.) mà không nh́n ra một sự thực được phơi bày trong lịch sử loài người là tất cả những cuộc tàn sát con người dă man và tàn bạo trong mọi cuộc chiến tranh (tôn giáo, ư thức hệ, chiếm đóng, v.v.) trong mọi cuộc cách mạng, cải cách, v.v. đều do bọn lănh tụ chưa gột rửa được bản chất thú vật để thành người có nhân, có nghĩa, mà đă biến đổi thành một giống vật tham lam, quỷ quyệt và ác độc hơn thú dữ, vô cảm trước khổ đau và chết chóc của con người.
Nỗi khao khát quyền lực và ḷng ham muốn được thỏa măn những đ̣i hỏi đầy thú tính của lănh tụ đă khiến cho nhân loại đă phải kinh qua những cảnh loạn ly, tang tóc như thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu đă khiến cho Khổng Tử muốn đưa ra những khuôn mẫu về cách đối xử trong mối tương quan giữa “[I][B]quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu[/B][/I]” c̣n gọi là “[B][I]Ngũ luân[/I][/B]” bao gồm đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè, và đào tạo môn sinh thành những mẫu người quân tử để giúp vua chăn dân, giữ nước và mang lại ḥa b́nh, thịnh vượng cho muôn dân. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải “[B]tu thân[/B]” để trở thành người có phẩm chất đạo đức: “[I][B]Quân tử sở tính Nhân nghĩa lễ trí[/B][/I]“, để không ngụp lặn trong đời sống của hạng tiểu nhân, hèn mạt, không đạo đức.
Những lư cớ để bài xích Khổng-Mạnh đă chỉ dựa vào câu: [I][B]Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung[/B][/I] (Vua xử tôi chết, tôi không chết, tôi không trung) để cho rằng Nho giáo đă dậy cho con người làm nô lệ cho vua chúa, nên những dân tộc chịu ảnh hưởng của nho giáo không có sức đề kháng để chống lại giai cấp thống trị.
Đó chỉ là những ngộ nhận về đạo lư Khổng-Mạnh, v́ sau khi những kinh sách về đạo lư Khổng-Mạnh đă bị Tần Thủy Hoàng tiêu hủy trong chủ trương chôn nho, đốt sách, Đổng Trọng Thư đă giúp Hán Vũ Đế khôi phục lại Nho giáo với mục đích dung ḥa giữa Pháp trị và Lễ trị và bớt đi phần Nhân trị để bảo vệ ngai vàng. Chính v́ vậy, quan hệ “[I][B]quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu[/B][/I]” trong Nho giáo nguyên thủy đă bị thay đổi thành “[I][B]tam cương[/B][/I]“: “[B][I]quân thần, phụ tử, phu phụ[/I][/B]” và thành mối quan hệ một chiều “[I][B]trung, hiếu, tiết nghĩa[/B][/I]”:
[I]Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.
Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu
Tại gia ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử.[/I]
Khổng Tử chủ trương người quân tử phải “[B]tu thân[/B]” để thành người có phẩm chất đạo đức, thấm nhuần Ngũ thường là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín và Ngũ luân là những giềng mối, quan hệ giữa “[I][B]quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu[/B][/I]“, nhưng là những giềng mối, quan hệ song phương để giữ cho xă hội có tôn ti, trật tự:
1- Phụ tử hữu Thân (Cha con có t́nh thân)
2- Quân thần hữu Nghiă (Vua tôi có t́nh nghĩa)
3- Phu phụ hữu Biệt (Vợ chồng có sự phân biệt)
4- Trưởng ấu hữu Tự ( (Anh em) lớn nhỏ có thứ tự)
5- Bằng hữu, hữu Tín (Bạn bè có ḷng tin).
và lúc nắm quyền hành đạo th́ phải cai tri dân bằng t́nh người (Nhân trị). Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân th́ Khổng Tử nói: “[I][B]Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân – Điều ǵ ḿnh không muốn th́ đừng làm cho người khác“[/B][/I].
Mạnh Tử chủ trương “[I][B]dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh[/B][/I]” nghĩa là trong nước dân là quan trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia (xă tắc), vua là thứ bậc xem nhẹ nhất.
Đạo lư Khổng-Mạnh coi sự lạm quyền, bạo lực hại dân của kẻ ở vị trí lănh đạo th́ cũng như tên vũ phu đê hèn mà thôi, khi nó xúc phạm đến nhân phẩm ḿnh, tác hại quần chúng xă hội, đất nước, th́ chẳng ngại ǵ mà không loại bỏ nó. Theo quan niệm của Mạnh Tử th́ “[B][I]Thị thích vạn thặng chi quân, nhược thích hạt phu[/I] – [I]Giết một ông vua có vạn chiến xa th́ cũng không khác việc giết một kẻ hèn mạt (xúc phạm, làm nhục ḿnh)[/I][/B]”
Mạnh tử được hỏi: “[B][I]Bầy tôi mà giết vua (Trụ Vương) ? Như vậy được không?” Mạnh Tử đáp: “Kẻ làm hại ḷng nhân, gọi là tặc; Kẻ làm hại nghĩa gọi là tàn. Kẻ tàn tặc chỉ là một đưá hèn mạt. Ta chỉ nghe nói tru diệt một đứa hèn mạt tên Trụ thôi, chứ không nghe nói giết vua bao giờ[/I][/B]“.
Trong những triều đại phong kiến, ngôi vua chỉ được truyền lại cho con chứ không truyền lại cho người tài đức nên đa số vua chúa từ xưa đến nay chỉ toàn là hạng ngựi hoang dâm, tàn bạo th́ cái đạo lư Khổng Mạnh quả là cao vời vợi làm sao mà các ông vua thời đó dám dùng những người tài giỏi như thày tṛ Khổng Tử, thế nên Khổng Tử và các môn đệ đi chu du khắp nơi để mong mang cái sở học của ḿnh giúp cho các nước trong thời Xuân Thu làm cho quốc thái dân an, mà chẳng ông vua nào dám dùng, phần v́ vua chẳng ra ǵ, phần v́ đám nịnh thần dèm pha, nên Khổng Tử đă dành gần cả cuộc đời ông để mở trường dạy học.
Tất cả những ǵ đă tạo nên phong cách của con người chúng ta ngày hôm nay là kết quả của những kinh nghiệm được sàng lọc và tích lũy từ hàng trăm ngàn năm.
Vậy th́ nếu những kinh nghiệm ngày xưa có điều nào không c̣n thích hợp với cuộc sống hôm nay th́ ta thay đổi cho phù hợp với đời sống hôm nay, đâu cần phải vứt bỏ cả một nền đạo lư tốt đẹp được xây dựng từ hơn 2000 năm trước chỉ v́ một vài điều không c̣n thích hợp với ngày hôm nay … và ngay chính Mạnh Tử cũng đă khuyên ta: “[I][B]Tận tín thư, bất như vô thư.[/B][/I]” nghĩa là: “Quá tin vào sách, thà không có sách c̣n hơn”
Xă hội loài người đă mất cả mấy trăm ngàn năm mà cũng chỉ mới tiến đến đuợc một thế giới c̣n đầy rẫy bất an và đau khỗ v́ loài người vẫn c̣n bị bọn lănh tụ lừa gạt, giáo dục để mà tôn thờ chúng, mà đa số lănh tụ đều là những kẻ đầy tham vọng, gian tham, xảo quyệt và bất nhân. Có được một lănh tụ có đạo đức, có nhân nghĩa là điều may mắn cho dân tộc đó.
Trong các triều đại quân chủ, con đường công danh để tiến thân là phải đi qua các trường thi (Thi Hương, Thi Hội, Thi Đ́nh) nên các nho sinh phải tinh thông Tứ thư (Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung và Mạnh Tử) , Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu), là 9 bộ sách chủ yếu của Ngo giáo. Nếu không được may mắn trúng tuyển để ra làm quan th́ cũng trở thành những nho sĩ có một nhân cách cao quư ([B]Nhân – Trí – Dũng[/B]) với phương châm sống “[I][B]Phú quư bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ bất năng khuất[/B][/I]” (Giàu sang không thể cám dỗ, Nghèo khó không thể chuyển lay, Quyền uy không thể khuất phục.) nên họ thường mở trường dậy học và sống trong cảnh an bần, lạc đạo.
Nho giáo đă bị đào thải trong thời Pháp thuộc, số người thấm nhuần đạo lư Khổng-Mạnh không c̣n được bao nhiêu, và cũng không ít nhà nho ra hợp tác với Pháp đă bị các nhà nho khác chê bai. dè bỉu:
[I]Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông Cử ngẩng đầu rồng.
[/I]
Đến khi chế độ cộng sản được áp đặt lên miền Bắc th́ nho gíáo coi như đă đi vào tuyệt lộ.
Xă hội đồi trụy, đạo đức con người suy thoái v́ những kẻ lănh đạo phi nhân, vô đạo và đểu cáng nên những người sinh sống trong xă hội đó không được giáo dục ( trong trường học hay trường đời) để trở thành người có phẩm chất tốt. Đó chính là kết quả đào xới, hủy diệt đến tận gốc rễ một nền văn hoá nho giáo của chế độ phi nhân, vô đạo cộng sản. Chế độ cộng sản là một đảo ngược mọi giá trị trong đạo lư Khổng-Mạnh, những giá trị cốt lơi của đạo lư Khổng-Mạnh là Ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) đă được chôn vùi thật kỹ trong cuộc “cải cách ruộng đất” long trời, lở đất, trong cuộc tàn sát man rợ Tết Mậu Thân và ḷng Trung-Hiếu cũng đă được Hồ Chí Minh và Tố Hữu làm gương cho cả nước vất vào sọt rác.
Chế độ phi nhân cộng sản chỉ có thể so sánh với chế độ bạo tàn Tần Thủy Hoàng. Hành động chôn nho, đốt sách của Tần Thủy Hoàng th́ cũng như cuộc đàn áp phong trào Nhân văn giai phẩm của chế độ cộng sản và sau khi cưỡng chiếm miền Nam, cộng sản Việt Nam lại tịch thu, đốt sách và đưa các văn nghệ sĩ, quân, dân, cán chính miền Nam vào trại tù cải tạo.
Một nền văn hoá mang nặng ảnh hưởng đạo lư Khổng-Mạnh đă được cạo rửa thật sạch sẽ để thay vào bằng một nền “văn hoá bất nhân và đểu giả”.
Bây giờ mà vẫn c̣n lập luận cho rằng văn hoá Khổng-Mạnh đă ăn sâu vào xương tủy nên người Việt nam đă mất hết sức đề kháng v́ chữ “Trung” trong Tam cương, Ngũ thường th́ thử hỏi những chữ Hiếu, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín nó ở đâu trong xương tủy mà đạo đức Việt Nam bị suy đồi khủng khiếp đến như hôm nay?
Ngay cả khi được có cơ hội tiếp cận với đạo lư Khổng-Mạnh th́ cũng không phải ai cũng có đủ tư chất lĩnh hội được những điều hay lẽ phải để thành người có phẩm chất tốt, huống chi là khi cơ hội và phương tiện đều không c̣n nữa.
Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm là người theo Tây học nhưng đă có một nền giáo dục gia đ́nh rất nặng ảnh hưởng Nho giáo và đă từng làm nhiều chức quan trong triều đại vua nhà Nguyễn.
Năm 1933, ông được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ Lại dưới triều vua Bảo Đại và là vị thượng thư trẻ tuổi nhất trong triều Nguyễn lúc bấy giờ. Dầu vậy khi ông đụng phải sự ngoan cố của nhà cầm quyền thực dân, ông cũng “rũ áo từ quan”, dứt khoát rời bỏ chức quyền không luyến tiếc.
Khi đất nước sắp sửa bị chia đôi, vua Bảo Đại lại khẩn thiết yêu cầu ông ra lănh đạo đất nước, mặc dù ông không thiết tha với viêc tham chính v́ ông vẫn chỉ muốn đi tu, ông đă nhận lời uỷ thác của vua Bảo Đại và thề trước chân dung Chúa là sẽ giữ vững đất nước và bảo vệ nó để chống lại bọn cộng sản.
Chỉ trong một thời gian rất ngắn sau khi chấp chính, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đă xây dựng lên một nền Đệ Nhất Cộng Hoà với một cơ chế chính quyền trung ương vững mạnh, huy động mọi tiềm năng quốc gia vào công cuộc phát triển kinh tế, canh tân xă hội và kiến tạo một đất nước dân chủ tiến bộ trong ổn định và thanh b́nh, biến một quân đội lệ thuộc ngoại bang thành một quân đội hùng mạnh có tổ chức qui củ, có kỷ luật, với một tinh thần chiến đấu rất anh dũng và đặt nền móng xây dựng một nền giáo dục vẫn c̣n chuyên chở đạo lư Khổng-Mạnh vào xă hội qua những môn học về những tấm gương sáng ngời của kẻ sĩ trong lịch sử.
Khi người Mỹ ngỏ ư muốn đưa quân vào tham chiến tại Việt Nam, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đă nhiều lần cương quyết khước từ v́ biết rằng sự hiện diện của quân đội ngoại bang sẽ làm mất chính nghĩa và dẫn đến mất chủ quyền quốc gia. Nhưng chẳng may cho ông, và chẳng may cho nền dân chủ c̣n phôi thai Việt Nam Cộng Hoà, đám tướng lănh bất trung, bất nghĩa đă vâng lời Henry Cabot Lodge, dưới sự chỉ đạo của tên điệp viên Lucien Emile Conein để làm cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Vào giờ phút quyết liệt cuối cùng đó Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm vẫn khước từ lời đề nghị của Lodge bảo đảm an toàn sinh mạng cho ông nếu ông chấp nhận sống lưu vong, bởi v́ ông đâu thể tham sinh úy tử mà coi thường lời thề giữ nước chống lại sự xâm lăng của cộng sản. Đám tướng lănh phản phúc, bất trung, bất nghĩa đă ra tay giết cả 3 anh em nhà ông và chia nhau túi bạc tương đương với 40 ngàn đô la mà Conein mang đến. Thật là một lũ bất nhân. Không phải là điều bất ngờ khi mà tất cả đám tướng lănh bất trung, phản phúc đều đă được thực dân Pháp đào tạo, th́ nửa chữ thánh hiền cũng chưa có được nói ǵ đến câu Trung-Nghĩa. Sau khi giết ông, đám tướng lănh bất trung, phản phúc và bọn cộng sản đă bới lông t́m vết, dựng nên biết bao chuyện hoang đường nhằm bôi nhọ thanh danh ông, nhưng chúng không thể nào bôi nhọ được sự liêm khiết của ông trong suốt 9 năm cầm quyền. Sau này có nhiều người chê trách ông sao dại thế, Mỹ nó đă muốn vào th́ để cho nó vào, chống làm ǵ để phải chết oan uổng. Lư luận như vậy là lấy cái khôn của kẻ tiểu nhân mà sánh với cái dại của người quân tử.
Sau khi lật đổ Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, đám tướng lănh bất trung, phản phúc đă tranh nhau xâu xé quyền lực và bổng lộc làm cho t́nh h́nh của miền Nam trở nên tồi tệ hơn rất nhiều đă khiến cho TT Lyndon B. Johnson phải bộc lộ sự tức giận về cái quyết định sai lầm của TT John F. Kennedy và gọi đám tướng lănh bất trung, phản phúc lá “[I]một bọn ác ôn côn đồ, đáng nguyền rủa[/I]” (a goddamn bunch of thugs). Sau 10 năm sai lầm th́ đám tướng lănh bất trung, phản phúc lại được tên điếm chính trị Henry Kissinger tặng cho một quả lừa lịch sử là Hiệp Đ́nh Paris năm 1973. Số phận hẩm hiu của miền Nam Việt Nam coi như đă được định đoạt từ đó rồi.
Sự chiến thắng của đoàn quân bất nhân, man rợ cộng sản năm 1975 đă reo rắc không biết bao nhiêu tang tóc, chia ĺa, đau khổ và mất mát cho người miền Nam qua những hành vi cướp của, giết người rất tinh vi và gian xảo như đưa tất cả quân-dân-cán chính của Việt Nam Cộng Hoà vào tù cải tạo, đẩy vợ con họ ra vùng kinh tế mới, tich thu, chiếm đoạt tài sản của người miền Nam qua các cuộc đánh tư bản, mại sản và đổi tiền khiến cho hàng triệu người Việt Nam phải liều chết bỏ nước ra đi, tạo thành một cuộc vượt biên lớn nhất trong lịch sử loài người, cho dù một nửa số người ra đi đă phải vùi thây trong biển cả.
Nếu ngày 30 tháng 4 là ngày đau buồn của người dân miền Nam, ngày đánh dấu sự thất thủ một tiền đồn chống cộng của quân đội Việt Nam Cộng Hoà, và bắt đầu sự thống trị của cộng sản trên cả nước Việt Nam, th́ trong ngày 30 tháng 4 lịch sử Việt Nam cũng viết lên những nét son vô cùng đẹp đẽ là từ cổ chí kim chưa từng có một quân đội nào mà có đến 5 vị tướng và mấy chục sỉ quan các cấp tuẫn tiết trong ngày thất thủ. Không phải là điều ngẫu nhiên mà cả 5 vị tướng và mấy chục sỉ quan các cấp của quân lực VNCH tuẫn tiết trong ngày thất thủ cũng như Thiếu tá Ngụy Văn Thà đều là những người đă được tôi luyện trong những mái trường c̣n mang nặng ảnh hưởng đạo lư Khổng-Mạnh.
Nhưng cho dù những người quân tử như Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, các Tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ và các sĩ quan các cấp khác cũng như Thiếu tá Ngụy Văn Thà có bị bức tử để bảo toàn tấm ḷng trung trinh ái quốc, vị quốc vong thân th́ họ vẫn c̣n sống măi trong sự tiếc thương của cả dân tộc, c̣n những hạng tiểu nhân như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, v.v th́ đă chết trong sự nguyền rủa ngay khi chúng c̣n đang sống.
Có kẻ nào cũng đă khắc lên mộ bia của vua Lê Chiêu Thống hai câu thơ:
[I][B]Bác rước quân Thanh giày mả tổ
Tôi dâng Tàu khựa ải Nam Quan.[/B][/I]
Thật là một dân tộc bất hạnh !
(Tháng 04 năm 2013)
© Bạch Tường Nguyên
© Đàn Chim Việt
[URL="http://www.danchimviet.info/archives/75376/nho-giao-va-nhung-ngo-nhan-ve-khong-tu/2013/04"]http://www.danchimviet.info/archives/75376/nho-giao-va-nhung-ngo-nhan-ve-khong-tu/2013/04[/URL]